Nghiệm thu đề tài khoa học Tư tưởng nhân văn Hồ Chí Minh – giá trị dân tộc và thời đại.

 

Nghiệm thu đề tài khoa học Tư tưởng nhân văn Hồ Chí Minh – giá trị dân tộc và thời đại.

Thực hiện kế hoạch nghiên cứu khoa học năm 2020, sáng ngày 10 tháng 12 năm 2020, Hội đồng nghiệm thu đề tài khoa học khoa Lý luận đại cương, Trường CĐ VHNT Nghệ An tổ chức nghiệm thu đề tài khoa học Tư tưởng nhân văn Hồ Chí Minh – giá trị dân tộc và thời đại của Th.S Phan Thị Tuyết Mai, giảng viên khoa Lý luận đại cương. Trong đề tài của mình, ThS Phan Thị Tuyết Mai đã đề cập đến những vấn đề sau:Những khái niệm, đặc điểm, nội dung và giá trị của Tư tưởng nhân văn Hồ Chí Minh. Nội dung quan trọng nhất của đề tài là phần nội dung Giá trị của Tư tưởng nhân văn Hồ Chí Minh.

1. Con người là vốn quý nhất - nhân tố quyết định thắng lợi của cách mạng

Lãnh tụ kính yêu - Hồ Chí Minh luôn dành tất cả tình thương yêu cho dân tộc Việt Nam. Khi trở thành lãnh tụ của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, Người không màng danh lợi cá nhân, suốt đời chăm lo cho hạnh phúc của nhân dân, cho sự trường tồn của dân tộc và sự phát triển của đất nước. Tư tưởng nhân văn Hồ Chí Minh bao quát toàn bộ Cách mạng Việt Nam là giải phóng dân tộc, đem lại độc lập, tự do cho Tổ quốc, hạnh phúc cho nhân dân. Tư tưởng đó được kết tinh thành một tuyên ngôn bất hủ không chỉ đối với nhân dân Việt Nam mà còn đối với toàn thể loài người tiến bộ: “Không có gì quý hơn độc lập, tự do.”

Để thực hiện lý tưởng nhân văn đó, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã vạch ra con đường đúng đắn cho cách mạng Việt Nam là "Độc lập dân tộc gắn liền với Chủ nghĩa xã hội". Giải phóng dân tộc là mục tiêu số một khi đất nước còn nô lệ. Vì vậy, ham muốn tột bậc của Người là "làm sao cho nước ta được hoàn toàn độc lập, dân ta được hoàn toàn tự do" . “Độc lập, tự do” trở thành bản chất cao quý trong tư tưởng nhân văn Hồ Chí Minh, trở thành ngọn cờ chiến đấu và mục tiêu suốt đời hy sinh, cống hiến của Người. Bởi đó là điều kiện tiên quyết đem lại hạnh phúc và tiến bộ cho nhân dân Việt Nam.

Tư tưởng nhân văn Hồ Chí Minh vô cùng rộng lớn, nhưng tựu chung lại vẫn là tình yêu thương con người. Tình yêu thương con người ở Hồ Chí Minh đã trở thành lẽ sống của Người, yêu thương con người gắn với tin ở con người, dùng sức của con người để giải phóng cho con người, vì con người và phục vụ con người.

Khác với một số quan niệm chưa đúng đắn về nhân dân lao động, về con người, tôn giáo, v.v.. Hồ Chí Minh đề cập con người cụ thể gắn với từng thời kì lịch sử; không có con người chung chung, trừu tượng phi nguồn gốc lịch sử hay con người kiểu tôn giáo. "Chữ người, nghĩa hẹp là gia đình, anh em, họ hàng, bầu bạn… Nghĩa rộng là đồng bào cả nước. Rộng hơn nữa là cả loài người", Hồ Chí Minh đã từng nói như vậy, quan niệm “bốn bể đều là anh em” rất rõ ràng, cụ thể. Tình thương yêu con người của Hồ Chí Minh chính là sự đồng cảm với những người cùng chung cảnh ngộ, của những người dân mất nước, nô lệ, lầm than. Trái tim Người hoà nhịp với khát vọng cháy bỏng được giải phóng của các dân tộc bị áp bức. Người đau nỗi đau chung của nhân loại lầm than. Xuất phát từ tình yêu thương ấy mà Người đã đi tìm con đường giải phóng cho dân tộc, giải phóng khỏi mọi áp bức, bất công. “Từ giải phóng những người nô lệ mất nước, những người lao động cùng khổ đến giải phóng con người”. Đó chính là mục tiêu mà Chủ tịch Hồ Chí Minh đã từng khẳng định trong Lời ra mắt của báo “Người cùng khổ” (Le Paria) tại nước Pháp năm 1921.

Đứng vững trên lập trường giai cấp công nhân, từ khi về nước lãnh đạo nhân dân đấu tranh giành chính quyền cách mạng, Hồ Chí Minh lại dùng đến khái niệm "đồng bào", "quốc dân"... Khi miền Bắc quá độ lên Chủ nghĩa xã hội, Người dùng thêm nhiều khái niệm như "công nhân", "nông dân", "trí thức", "lao động chân tay", "lao động trí óc", "người chủ xã hội"...

2. Tình thương yêu, quý trọng con người, thương yêu nhân dân vô hạn của Hồ Chí Minh

Tình yêu thương con người ở Hồ Chí Minh xuất phát từ tình yêu thương của những người đồng cảnh ngộ, mất nước, bị nô lệ, cùng chung số phận bị áp bức bóc lột, đi tìm lối thoát cho dân tộc. không chung chung, trừu tượng kiểu tôn giáo, mà luôn luôn được nhận thức và giải quyết trên lập trường của giai cấp vô sản, dành cho các dân tộc và con người bị áp bức, đau khổ. Khi bôn ba nơi hải ngoại, chứng kiến cảnh bị áp bức bóc lột của công nhân, của nhân dân lao động các nước Tư bản Chủ nghĩa, chứng kiến cảnh bị áp bức của nhân dân các thuộc địa khác, tình yêu thương con người ở Người mở rộng sang yêu thương những người cùng cảnh ngộ, những người lao động nghèo đói, những người thuộc các dân tộc Việt Nam. Xuất phát từ tình yêu thương ấy mà Người đã đi tìm con đường giải phóng cho dân tộc, giải phóng khỏi mọi áp bức, bất công. Mục tiêu của Hồ Chí Minh đã từng nói rõ trong lời ra mắt của báo Người cùng khổ (Le Paria) năm 1921: "đi từ giải phóng những người nô lệ mất nước, những người lao động cùng khổ đến giải phóng con người". Hồ Chí Minh thương yêu con người với một tình cảm sâu sắc, vừa bao la rộng lớn, vừa gần gũi thân thương đối với từng số phận con người. Hồ Chí Minh luôn sống giữa cuộc đời và không có cái gì thuộc về con người đối với Hồ Chí Minh lại là xa lạ. Người quan tâm đến tư tưởng, công tác, đời sống của từng người, việc ăn, việc mặc, ở, học hành, giải trí của mỗi người dân, không quên, không sót một ai, từ những người bạn thuở hàn vi, đến những người quen mới. Tình thương yêu con người ở Hồ Chí Minh luôn gắn liền với hành động cụ thể, phấn đấu vì độc lập của Tổ quốc, tự do hạnh phúc cho con người.Với mục tiêu được xác định, Người trở về nước thực hiện sự nghiệp giải phóng dân tộc Việt Nam khỏi ách áp bức của thực dân Pháp và bè lũ tay sai. Với đường lối đúng đắn mà Người đề ra, tập hợp, đoàn kết toàn dân tộc vào một Mặt trận thống nhất và tranh thủ sự ủng hộ và giúp đỡ của quốc tế, nhân dân ta đã đánh đuổi đế quốc thực dân, giải phóng dân tộc, nước ta hoàn toàn độc lập, thống nhất và xây dựng cuộc sống mới. Luôn thương yêu con người, nên Hồ Chí Minh luôn khát khao hòa bình, một nền hòa bình thật sự, trong độc lập, tự do. Trước cách mạng, trong kháng chiến, Hồ Chí Minh luôn có thái độ nghiêm túc, thận trọng đối với vấn đề khởi nghĩa, tranh thủ khả năng phát triển hòa bình để hạn chế sự đổ máu cho nhân dân ta và nhân dân các nước. Lãnh đạo Cách mạng Tháng Tám năm 1945, Người chủ trương chủ yếu sử dụng bạo lực chính trị. Đó là cuộc cách mạng ít đổ máu nhất. Sau Cách mạng Tháng Tám, Hồ Chí Minh đã cố gắng làm tất cả những gì có thể làm được để tránh cuộc chiến tranh Việt - Pháp. Nhưng khi bọn thực dân hiếu chiến quyết gây ra chiến tranh để buộc dân ta sống kiếp đời nô lệ, mất nước thì Hồ Chí Minh kêu gọi cả dân tộc đứng lên chiến đấu vì độc lập, tự do của Tổ quốc, vì nền hòa bình và phẩm giá của nhân loại tiến bộ. Hồ Chí Minh coi sinh mạng con người là quý giá nhất. Theo Người, "không có một trận đánh đẫm máu nào là "đẹp" cả, mặc dù thắng lớn. Người quý trọng sứcdân, của dân; trọng người tài, đức, trân trọng "người tốt, việc tốt" dù rất nhỏ".Người trân trọng từng ý kiến của dân, lắng nghe dân, học hỏi dân, bàn bạc với dân, tự phê bình trước dân, trả lời ý kiến của dân, tôn trọng và chấp hành nghiêm minh pháp luậtNgay sau khi Cách mạng Tháng Tám năm 1945 thành công, Người đề ra những nhiệm vụ cấp bách là diệt giặc đói và diệt giặc dốt cùng với việc chống giặc ngoại xâm. Trước mắt phải xóa đói nghèo, làm cho kinh tế phát triển "làm cho người nghèo thì đủ ăn, người đủ ăn thì khá giàu và người khá giàu thì giàu thêm". Kinh tế có phát triển, đời sống đồng bào có ấm no thì đất nước mới cường thịnh. Người từng nói: Tôi thấy các cháu bụng ỏng, mắt choẹt, tôi hết sức đau lòng". Người yêu cầu những người lãnh đạo chính quyền phải chăm lo đến đời sống nhân dân, phải chăm lo từ việc "tương cà, mắm muối của dân", không được áp bức quần chúng nhân dân.

Người chăm lo đến việc nâng cao dân trí, chống giặc dốt, xóa nạn mù chữ, phát triển giáo dục. Người từng nói "Một dân tộc dốt là một dân tộc yếu". Người yêu cầu đảng cầm quyền phải chăm lo đến nâng cao trình độ học vấn cho nhân dân, chăm lo phát triển mọi mặt của dân tộc ta. Người thường nói chế độ thực dân đã dùng mọi thủ đoạn ngu dân để đầu độc dân tộc ta, để hủ hóa nhân dân ta bằng những thói xấu như lười biếng, gian xảo, tham ô. Cho nên phải làm sao để dân tộc Việt Nam trở thành một dân tộc dũng cảm, yêu nước, yêu lao động, một dân tộc xứng đáng với nước Việt Nam độc lập, "sánh vai với các cường quốc năm châu". Tình yêu thương con người ở Hồ Chí Minh không chỉ giới hạn ở nhân dân Việt Nam mà ở tình bác ái bao la. Người còn nói "Lòng yêu thương của tôi đối với nhân dân và nhân loại không bao giờ thay đổi" và trước lúc đi xa, Người viết "Đầu tiên là vấn đề con người" và "Cuối cùng tôi để lại muôn vàn tình thân yêu cho toàn dân, toàn Đảng, cho toàn thể bộ đội, cho các cháu thanh niên và nhi đồng. Tôi cũng gửi lời chào thân ái đến các đồng chí, các bầu bạn và các cháu thanh niên, nhi đồng quốc tế". Chăm lo, bồi dưỡng, phát huy sức mạnh của con người, tin tưởng vững chắc vào khả năng và phẩm giá tốt đẹp của con người. Cách mạng Tháng Tám thành công, tại cuộc họp đầu tiên của ủy ban nghiên cứu kế hoạch, kiến quốc, Hồ Chí Minh nêu rõ mục tiêu của Nhà nước là: "Làm cho dân có ăn. Làm cho dân có mặc. Làm cho dân có chỗ ở. Làm cho dân có học hành". Người còn nói: "Chúng ta đã hy sinh phấn đấu để giành độc lập. Chúng ta đã tranh được rồi... Chúng ta tranh được tự do, độc lập rồi mà dân cứ chết đói, chết rét, thì tự do, độc lập cũng không làm gì . Dân chỉ biết rõ giá trị của tự do, của độc lập khi mà dân được ăn no, mặc đủ".

3. Chăm lo cho con người, tin vào sức mạnh, phẩm giá và tính sáng tạo của con người, tạo điều kiện cho con người phát triển toàn diện

Hồ Chí Minh kế thừa tư tưởng kiệt xuất của các anh hùng, hào kiệt của dân tộc như Trần Hưng Đạo, Nguyễn Trãi... về sức mạnh của nhân dân "Khoan thư sức dân để làm kế bền gốc, sâu rễ", "đẩy thuyền cũng là dân mà lật thuyền cũng là dân". Người còn kế thừa tư tưởng nhân văn "lấy dân làm gốc" và chủ nghĩa nhân đạo hiện thực của học thuyết Mác để hình thành tư tưởng nhân văn mới, tin tưởng mãnh liệt vào sức mạnh, tính chủ động, sáng tạo của quần chúng nhân dân và lòng tôn trọng, kính trọng nhân dân lao động. Người nói "Trong bầu trời không có gì quý bằng nhân dân. Trong thế giới không gì mạnh bằng lực lượng đoàn kết của nhân dân".

Trong điều kiện bị đế quốc thực dân thống trị, kẻ thù đàn áp dã man, cùng với chính sách ngu dân của chúng, người dân các nước thuộc địa tưởng chừng không thể gượng dậy nổi, song Chủ tịch Hồ Chí Minh vẫn tin tưởng ở nhân dân mình, dân tộc mình "...đằng sau sự phục tùng tiêu cực, người Đông Dương đang dấu một cái gì đang sôi sục, đang gào thét và sẽ bùng nổ một cách ghê gớm khi thời cơ đến..." và sự tàn bạo của chủ nghĩa tư bản đã chuẩn bị đất rồi: chủ nghĩa xã hội chỉ cần phải làm cái việc là gieo hạt giống của công cuộc giải phóng nữa thôi. Trong quá trình đấu tranh, Người đã làm cho nhân dân thế giới nhận thức rõ vấn đề thuộc địa, đoàn kết giúp đỡ phong trào giải phóng dân tộc là giúp đỡ cho chính mình. Năm 1921, Hồ Chí Minh đã có những quan điểm khác hẳn với nhiều suy nghĩ lúc bấy giờ. Người viết: "Bị đầu độc cả về tinh thần lẫn thể xác, bị bịt mồm và bị giam hãm, người ta có thể tưởng rằng cái bẫy người ấy cứ mãi mãi bị dùng làm đồ để tế cái ông thần tư bản, rằng bầy người đó không sống nữa, không suy nghĩ nữa và là vô dụng trong việc cải tạo xã hội. Không: người Đông Dương không chết, người Đông Dương vẫn sống, sống mãi mãi... Đằng sau sự phục tùng tiêu cực, người Đông Dương giấu một cái gì đang sôi sục, đang gào thét và sẽ bùng nổ một cách ghê gớm, khi thời cơ đến" Dân ta có tài năng, trí tuệ và sáng tạo, họ biết "giải quyết nhiều vấn đề một cách giản đơn, mau chóng, đầy đủ, mà những người tài giỏi, những đoàn thể to lớn, nghĩ mãi không ra". Đặc biệt là lòng sốt sắng, hăng hái của dân để thực hiện con đường cách mạng. Hồ Chí Minh có niềm tin vững chắc với tinh thần quật cường và lực lượng vô tận của dân tộc ta, với lòng yêu nước và chí kiên quyết của nhân dân và quân đội ta, chẳng những chúng ta có thể thắng lợi, mà chúng ta nhất định thắng lợi.

Điểm nhấn trong tư tưởng nhân văn của Hồ Chí Minh không những là tình thương, sự đồng cảm với những con người cùng cảnh ngộ. Thực chất, đó không phải là lòng thương hại, mà chính là lòng tin vững chắc vào khả năng và phẩm giá tốt đẹp của con người. Tư tưởng “Dĩ dân vi bản” (Lấy dân làm gốc) với Người vẫn muôn đời không đổi. Lòng tin của Người vào sức mạnh và tính sáng tạo của quần chúng nhân dân đã khẳng định điều đó. Sống trong lòng nhân dân, gắn bó máu thịt với nhân dân nên suy nghĩ thường trực trong Người là “đem tài dân, sức dân, của dân để làm lợi cho dân”.

Trên cơ sở của tình thương để đặt niềm tin vào con người, đây là nền tảng thiết yếu của một hệ thống tư tưởng lớn hơn. Từ Thương (đồng cảm) đến Tin rồi mới Trọng. Đây là một quá trình hoàn toàn biện chứng, Hồ Chí Minh đã vận dụng vô tinh tế truyền thống của cha ông trong một triết lý: “Có trọng người, kính người thì người mới trọng ta”. Ngày nay, nội dung trên càng có ý nghĩa lớn lao, nó đã thúc đẩy và tạo được mối dung hoà, gắn kết bền chặt ở cả lý luận và thực tiễn.

Người nhận thấy rõ vai trò của quần chúng nhân dân trong sự nghiệp cách mạng, "người là gốc của làng nước", "nước lấy dân làm gốc", "gốc có vững cây mới bền", "xây lầu thắng lợi trên nền nhân dân". Người còn nói rằng: "Dân như nước, mình như cá", "lực lượng nhiều là ở dân hết". "Công việc đổi mới là trách nhiệm ở dân". Do đó, Người yêu cầu "Đem tài dân, sức dân, của dân, làm lợi cho dân". Niềm tin vào sức mạnh của dân còn được nhận thức từ mối quan hệ giữa nhân dân với Đảng và Chính phủ. Hồ Chí Minh chỉ rõ: nếu không có nhân dân thì Chính phủ không đủ lực lượng; nếu không có Chính phủ thì nhân dân không có ai dẫn đường. Đảng lãnh đạo để dân làm chủ. Lực lượng bao nhiêu là nhờ ở dân hết. Nhận thức như vậy để hiểu rằng tin dân, học dân, tôn trọng dân, dựa vào dân theo đúng đường lối quần chúng sẽ tạo nên sức mạnh vô địch. Bởi vì sự nghiệp cách mạng giành độc lập dân tộc và xây dựng chủ nghĩa xã hội chỉ có thể thực hiện được với sự giác ngộ đầy đủ và lao động sáng tạo của hàng chục triệu quần chúng nhân dân.

Tình thương bao la của Chủ tịch Hồ Chí Minh không chỉ đối với các anh hùng, liệt sĩ, cán bộ, dân quân, du kích, thanh niên xung phong, đối với cha mẹ, vợ con của thương binh, liệt sĩ, mà ngay cả đối với các nạn nhân chiến tranh, đối với những người lầm đường lạc lối, những người thiếu tu dưỡng…Người cũng tìm cách phát huy những ưu điểm và hạn chế những nhược điểm của họ. Người căn dặn phải giúp họ trở thành những người lao động lương thiện Chủ tịch Hồ Chí Minh đặc biệt coi trọng xây dựng "con người mới" vì đây là động lực quyết định hướng đi lên của xã hội Việt Nam tương lai. Người đòi hỏi phải có chiến lược trồng Người. Con người mới vừa là nhân vừa là quả của quá trình đấu tranh xây dựng xã hội mới. Theo Người, con người mới xã hội chủ nghĩa Việt Nam phải có tinh thần làm chủ xã hội "đã là người chủ thì phải biết tự mình lo toan gánh vác, không ỷ lại, không ngồi chờ". Con người mới phải có tri thức văn hóa và khoa học, có trình độ chuyên môn nghiệp vụ. Con người mới phải có phẩm chất đạo đức cách mạng "cần, kiệm, liêm, chính', "Chí công, vô tư". Phải nghiêm khắc chống chủ nghĩa cá nhân. Nhưng chống chủ nghĩa cá nhân không có nghĩa là phủ định lợi ích chính đáng của cá nhân. Người nói: "Mỗi người đều có tính cách riêng, sở trường riêng, đời sống riêng của bản thân và gia đình. Nếu lợi ích cá nhân đó không trái với lợi ích tập thể thì không phải là xấu".Theo Người, con người mới Việt Nam là con người phải mang đậm truyền thống dân tộc, đồng thời giàu chất quốc tế xã hội chủ nghĩa.

Con người phải được đặt vào vị trí trung tâm của sự phát triển. Nó vừa nằm trong chiến lược phát triển kinh tế - xã hội của đất nước với nghĩa rộng, vừa nằm trong chiến lược giáo dục - đào tạo theo nghĩa hẹp. Người khẳng định: Muốn xây dựng chủ nghĩa xã hội, trước hết cần có những con người xã hội chủ nghĩa. Hồ Chí Minh quan niệm"Vì lợi ích mười năm thì phải trồng cây, vì lợi ích trăm năm thì phải trồng người". Để "trồng người", có nhiều biện pháp, nhưng giáo dục - đào tạo là biện pháp quan trọng bậc nhất. Bởi vì giáo dục tốt sẽ tạo ra tính thiện, đem lại tương lai tươi sáng cho thế hệ trẻ. Ngược lại giáo dục tồi sẽ ảnh hưởng xấu tới thế hệ trẻ. Hồ Chí Minh nói vai trò của giáo dục: Một dân tộc dốt là một dân tộc yếu; dốt thì dại, dại thì hèn... Cho nên phải chống giặc dốt cũng như chống giặc đói, giặc ngoại xâm, giặc nội xâm. Muốn có cán bộ tốt, côn dân tốt, phải "trồng" và dĩ nhiên là rất công phu. Chủ tịch Hồ Chí Minh chỉ cho chúng ta thấy mối quan hệ biện chứng giữa giáo dục với cách mạng, giữa giáo dục với sự nghiệp giải phóng dân tộc và kiến thiết đất nước: "muốn giữ vững nền độc lập, muốn làm cho dân mạnh, nước giàu mọi người Việt Nam đều phải hiểu biết quyền lợi của mình, bổn phận của mình, phải có kiến thức mới để có thể tham gia vào công cuộc xây dựng nước nhất. Vì thế, giáo dục có tầm quan trọng hàng đầu trong chiến lược con người, bởi giáo dục đào tạo nên chất người, nên nhân tài. Trong Nhật ký trong tù, Bác viết: "Hiền dữ phải đâu là tính sẵn. Phần nhiều do giáo dục mà nên". Chiến lược giáo dục là hạt nhân trong chiến lược con người, cung cấp trí thức mới, đào tạo nên nhân tài cho đất nước. Gửi thư cho học sinh nhân ngày khai trường đầu tiên của nước Việt Nam dân chủ cộng hòa, tháng 9/1945, Bác viết: "Ngày nay, các cháu được cái may mắn hơn cha anh là được hưởng một nền giáo dục của một nước độc lập, một nền giáo dục nó sẽ đào tạo các cháu nên nhưng người công dân có ích cho nước Việt Nam, một nền giáo dục làm phát triển hoàn toàn năng lực sẵn có của các cháu… Đó là một nền giáo dục “vì lợi ích trăm năm" của đất nước.

Trong năm vừa qua, một bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng viên, kể cả một số cán bộ chủ chốt các cấp, yếu kém cả về phẩm chất và năng lực… thoái hóa, biến chất về chính trị, tư tưởng, về đạo đức, lối sống, tệ quan liêu, tham nhũng, lãng phí… Vì thế trong công tác cán bộ, đảng đã đưa ra mục tiêu chung là xây dựng đội ngũ cán bộ có bản lĩnh chính trị vững vàng, có đạo đức, lối sống lành mạnh, không quan liêu, tham nhũng, lãng phí, có tư duy đổi mới, sáng tạo, có kiến thức chuyên môn, nghiệp vụ đáp ứng yêu cầu của thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa…đề ra mục tiêu những năm tới của giáo dục và đào tạo là: Nâng cao chất lượng giáo dục toàn diện, đổi mới cơ cấu tổ chức, nội dung, phương pháp dạy và học, thực hiện “chuẩn hóa, hiện đại hóa, xã hội hóa” chấn hưng nền giáo dục Việt Nam.

Nội dung và phương pháp giáo dục phải toàn diện, cả đức, trí, thể, mỹ, phải đặt đạo đức, lý tưởng và tình cảm cách mạng, lối sống xã hội chủ nghĩa lên hàng đầu. Hai mặt đức, tài thống nhất với nhau, không tách rời nhau, trong đó "đức" là gốc, là nền tảng cho tài năng phát triển. Phải kết hợp giữa nhận thức và hành động, lời nói với việc làm... Có như vậy mới có thể "học để làm người". "Trồng người" là công việc "trăm năm", không thể nóng vội "một sớm một chiều", không phải làm một lúc là xong, cũng không phải tùy tiện, đến đâu hay đến đó.Nhận thức và giải quyết vấn đề này có ý nghĩa thường trực, bền bỉ trong suốt cuộc đời mỗi con người, trong suốt thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội. Vì vậy không được coi nhẹ, sao nhãng sự nghiệp giáo dục. Theo tinh thần của V.I. Lênin: "Học học nữa, học mãi" và của Khổng Tử: "Học không biết chán, dạy không biết mỏi", Hồ Chí Minh cho rằng: "Việc học không bao giờ cùng, còn sống còn phải học".Cả cuộc đời của Chủ tịch Hồ Chí Minh là một hình mẫu của con người nhân văn của thời đại mới. Trong con người Hồ Chí Minh là sự thống nhất giữa lòng yêu thương con người với lòng tin, sự tôn trọng và ý chí cùng hành động triệt để giải phóng dân tộc, giải phóng xã hội, giải phóng con người.

4. Lòng khoan dung, độ lượng rộng lớn đối với con người

Tư tưởng bao dung Hồ Chí Minh xuất phát từ quan điểm: “Sông to, biển rộng, thì bao nhiêu nước cũng chứa được, vì độ lượng nó rộng và sâu. Cái ché nhỏ, cái đĩa cạn, thì một chút nước cũng đầy tràn: vì độ lượng nó hẹp nhỏ”. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã phân biệt bọn thực dân cướp nước ta với nhân dân lương thiện ở các nước đó. Người cũng phân biệt bọn hiếu chiến Mỹ với nhân dân Mỹ yêu tự do và hoà bình. Người không hề đánh đồng bọn xâm lược Mỹ với nhân dân Mỹ. Và chính Người đã coi bạn bè năm chân tận tình ủng hộ cuộc đấu tranh chống đế quốc Mỹ của nhân dân ta, trong đó có cả nhân dân yêu chuộng hoà bình Mỹ.Vì sự nghiệp giải phóng dân tộc, vì tiến bộ xã hội, Hồ Chí Minh đưa ra chủ trương có lý, có tình đối với kiều dân nước ngoài ở Việt Nam, nhằm bảo vệ tính mạng,tài sản của họ. Người đánh giá cao vấn đề này và ghép tội "vô cớ sát hại kiều dân ngoạiquốc" vào tử hình.Với lòng nhân ái bao la, phát huy truyền thống "thương người như thể thương thân", "đánh kẻ chạy đi không đánh kẻ chạy lại", Hồ Chí Minh có chính sách khoan hồng đại lượng, đối xử nhân đạo với tù binh.

Chủ nghĩa bao dung trong tư tưởng nhân văn Hồ Chí Minh không chỉ là sự quan tâm đến hạnh phúc của con người, mà còn là tấm lòng rộng mở đối với cả tự nhiên. Người không quên dặn dò các thế hệ sau này phải bảo vệ hệ sinh thá i cho đa dạng, cân bằng. Người đề xuất ý tưởng trồng cây và bảo vệ sự trong sạch của môi trường sống. Trong tư tưởng nhân văn Hồ Chí Minh đã đặt vấn đề cần giáo dục đạo đức sinh thái cho nhân dân.

Có thể nói, bao dung trong tư tưởng nhân văn Hồ Chí Minh gắn chặt chẽ với các vấn đề đạo đức mới, mà Chủ tịch Hồ Chí Minh đã gọi là đạo đức vĩ đại. Đạo đức này không chỉ quan tâm đến con người, thương người, tin tưởng ở con người, tự giác phục vụ những lợi ích của con người mà còn có cả tình cảm bao la quan tâm đến tự nhiên, bảo vệ mối quan hệ hài hoà giữa con người với tự nhiên.

Sinh thời, Người trồng cây, nuôi cá, chăm chút từng gốc bưởi, hàng bụt mọc nơi mình sinh sống. Người thương con người và thương yêu cả cây cỏ, hoa lá. Tình cảm khoan dung Hồ Chí Minh là một nét đặc sắc trong chủ nghĩa nhân văn Hồ Chí Minh.

Chủ nghĩa nhân văn Hồ Chí Minh không phải là một chủ nghĩa nhân văn không có tính chiến đấu. Hồ Chí Minh kiên quyết chống lại mọi cái gì trái với lẽ phải. Vì thế, tính nhân văn trong tư tưởng của Người gắn liền tình thương bao la với lẽ phải chân chính. Bọn xâm lược Mỹ, những phần tử hại dân, hại nước, những hư hỏng của xã hội không thể được khoan dung vô điều kiện. Phải cải tạo, phải đấu tranh để cho cái thiện thắng cái ác.

Quan niệm của Hồ Chí Minh về con người rất toàn diện. Con người không phải là thần thánh, có cả cái tốt và cái xấu. Bởi vậy, theo Người phải "làm cho phần tốt trong mỗi con người nảy nở như hoa mùa xuân và phần xấu bị mất dần đi". Người yêu cầu phải thức tỉnh, tái tạo lương tâm, đánh thức những gì tốt đẹp trong con người. Ngay cả đối với những người lầm đường lạc lối, Chủ tịch Hồ Chí Minh cũng rất khoan dung, độ lượng: "Năm ngón tay cũng có ngón ngắn, ngón dài. Nhưng ngắn dài đều họp lại nơi bàn tay. Trong mấy triệu người cũng có người thế này, thế khác, nhưng thế này hay thế khác đều dòng dõi của tổ tiên ta. Vậy nên ta phải khoan hồng đại độ". Khi cán bộ, đảng viên có lỗi, Người chú ý giáo dục, nhẹ về xử phạt. Người cố gắng cổ vũ con người, hướng con người tới chân - thiện - mỹ và trân trọng mọi ý kiến khác nhau, kể cả những ý kiến không đồng tình, trái với suy nghĩ của Người. Ứng xử văn hóa của Hồ Chí Minh đã tranh thủ được trái tim, khối óc của bạn bè năm châu, làm cho kẻ thù cũng phải khâm phục.

Văn hóa khoan dung Hồ Chí Minh là kết tinh truyền thống nhân ái, độ lượng Việt Nam và cũng là nét đặc trưng của văn hóa hòa bình trong thời đại ngày nay. Người nói: “Dân tộc ta là một dân tộc giàu lòng đồng tình và bác ái”. Hồ Chí Minh đã kế thừa và phát triển những giá trị khoan dung của dân tộc và nhân loại, nâng lên thành một chất lượng mới, ở một tầm cao mới.Là người cộng sản, Hồ Chí Minh có thái độ tôn trọng, không bao giờ tỏ ra kỳ thị, bài bác mà luôn luôn có ý thức khai thác, vận dụng những yếu tố tích cực của các học thuyết chính trị và tôn giáo như Nho, Phật, Lão, Thiện chúa giáo… vào sự nghiệp bảo vệ và xây dựng đất nước.Khoan dung văn hóa Hồ Chí Minh được xây dựng trên cơ sở chữ “nhân” nhưng là một chữ nhân sáng suốt, có nguyên tắc, lấy công lý, chính nghĩa là nền tảng, chủ trương giải quyết những vấn đề dân tộc và quốc tế trên cơ sở “có lý, có tình”.Khoan dung văn hóa Hồ Chí Minh là thái độ trân trọng đối với mọi giá trị văn hóa nhân loại, là không ngừng rộng mở, thâu hóa những yếu tố tích cực, tiến bộ và nhân văn của loài người để làm giàu cho văn hóa Việt Nam. Khoan dung văn hóa Hồ Chí Minh là chấp nhận giao lưu và đối thoại bình đẳng về giá trị để đạt tới cái chung, cái nhân loại, để cùng tồn tại và phát triển. Trong khi chống thực dân Pháp xâm lược, Người vấn đề cao văn hóa Pháp. Trong khi chống đế quốc Mỹ, Người vẫn ca ngợi truyền thống văn hóa dân chủ và cách mạng Mỹ. Nói về văn hóa khoan dung Hồ Chí Minh, nhà báo Mỹ Đ.Han-bơ-xtam đã thừa nhận: “Cụ Hồ đã làm được một điều đáng chú ý: biết dùng tới văn hóa và tâm hồn kẻ thù để chiến thắng” Chủ tịch Hồ Chí Minh đã để lại cho dân tộc Việt Nam một di sản văn hóa cao đẹp và phong phú, trong đó không thể nhắctới những tư tưởng chỉ đạo của Người về xây dựng một nền văn hóa mới: dân tộc, khoa học và nhân văn, một nền văn hóa “lấy hạnh phúc của đồng bào, của dân tộc làm cơ sở”, “làm cho ai cũng có lý tưởng, độc lập, tự chủ”, “văn hóa phải sửa đổi được tham nhũng, lười biếng, phù hoa xa xỉ”, “văn hóa phải soi đường cho quốc dân đi”… Những phương châm đó vẫn giữ nguyên giá trị chỉ đạo đối với việc xây dựng nền văn hóa dân tộc, cho hôm nay và cả mai sau.

5. Đấu tranh giải phóng con người

Mục tiêu cách mạng của Hồ Chí Minh là giải phóng dân tộc, giải phóng xã hội, giải phóng con người, thực hiện độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội. Khi đất nước còn nô lệ, lầm than thì mục tiêu trước hết, trên hết là giải phóng dân tộc, giành độc lập dân tộc. Sau khi chính quyền đã về tay nhân dân, thì mục tiêu ăn, mặc, ở, đi lại, học hành, chữa bệnh lại được ưu tiên hơn. Bởi vì, Người cho rằng, nếu nước độc lập mà dân không hưởng hạnh phúc, tự do thì độc lập cũng không có nghĩa lý gì; vì vậy, chúng ta phải thực hiện ngay: làm cho dân có ăn, làm cho dân có mặc, làm cho dân có chỗ ở, làm cho dân được học hành. Trong Di chúc, Người viết: "Đầu tiên là công việc đối với con người". Xuất phát từ truyền thống yêu nước, thương dân bị nô lệ, Hồ Chí Minh đi tìm đường cứu nước, cứu dân. Suốt cuộc đời của người là vì dân, vì nước. Người nói: "Tôi chỉ có một ham muốn, ham muốn tột bậc là nước được độc lập, tự do, nhân dân ai cũng có cơm ăn, áo mặc, ai cũng được học hành".Cách mạng tháng Tám 1945 thành công, tại cuộc họp đầu tiên của Uỷ ban nghiên cứu kế hoạch kiến quốc, Hồ Chí Minh nêu rõ mục tiêu của Nhà nước là:

1. Làm cho dân có ăn.

2. Làm cho dân có mặc.

3. Làm cho dân có chỗ ở.

4. Làm cho dân có học hành".

Người còn nói "Chúng ta đã hy sinh phấn đấu để giành độc lập. Chúng ta đã tranh được rồi… Chúng ta tranh được tự do, độc lập rồi mà dân cứ chết đói, chết rét, thì tự do, độc lập cũng không làm gì. Dân chỉ biết rõ giá trị của tự do, của độc lập khi mà dân được ăn no, mặc đủ" Do vậy, khi có chính quyền rồi, Người luôn nhắc nhở phải xây dựng bộ máy trong sạch, đấu tranh với những biểu hiện của thói quan liêu, hách dịch, nhũng nhiễu nhân dân; phải dựa vào nhân dân, khơi dậy sức mạnh tiềm tàng trong nhân dân để phục vụ cho sự nghiệp đổi mới, xây dựng đời sống mới trong nhân dân…

Con người là động lực của cách mạng được nhìn nhận trên phạm vi cả nước, toàn thể đồng bào, song trước hết là ở giai cấp công nhân và nông dân. Điều này có ý nghĩa to lớn trong sự nghiệp giải phóng dân tộc và xây dựng chủ nghĩa xã hội. Không phải mọi con người đều trở thành động lực, mà phải là những con người được thức tỉnh, giác ngộ, giáo dục, định hướng và tổ chức. Họ phải có trí tuệ và bản lĩnh, văn hóa, đạo đức, được nuôi dưỡng trên nền truyền thống lịch sử và văn hóa hàng ngàn năm của dân tộc Việt Nam...

Như vậy, con người phải được đặt vào vị trí trung tâm của sự phát triển. Nó vừa nằm trong chiến lược phát triển kinh tế - xã hội của đất nước với nghĩa rộng, vừa nằm trong chiến lược giáo dục - đào tạo theo nghĩa hẹp. Người khẳng định: Muốn xây dựng chủ nghĩa xã hội, trước hết cần có những con người xã hội chủ nghĩa. Con người xã hội chủ nghĩa đương nhiên phải do chủ nghĩa xã hội tạo ra. Nhưng ở đây trên con đường tiến lên chủ nghĩa xã hội thì "trước hết cần có những con người xã hội chủ nghĩa". Điều này cần được hiểu là ngay từ đầu phải đặt ra nhiệm vụ xây dựng con người có những phẩm chất cơ bản, tiêu biểu cho con người xã hội chủ nghĩa, làm gương, lôi cuốn xã hội. Công việc này là một quá trình lâu dài không ngừng hoàn thiện, nâng cao và thuộc về trách nhiệm của Đảng, Nhà nước, gia đình, cá nhân mỗi người. Mỗi bước xây dựng những con người như vậy là một nấc thang xây dựng chủ nghĩa xã hội.

Quan niệm của Hồ Chí Minh về con người xã hội chủ nghĩa có hai mặt gắn bó chặt chẽ với nhau. Một là kế thừa những giá trị tốt đẹp của con người truyền thống (Việt Nam và phương Đông). Hai là hình thành những phẩm chất mới như: có tư tưởng xã hội chủ nghĩa; có đạo đức cách mạng; có trí tuệ và bản lĩnh để làm chủ; có tác phong xã hội chủ nghĩa; có lòng nhân ái, vị tha, độ lượng.

Bên cạnh đó, tác giả đã đề cập đến giá trị dân tộc và thời đại của Tư tưởng nhân văn Hồ Chí Minh:

Dân tộc Việt Nam trong quá trình tồn tại và phát triển của mình, đã hình thành nên chủ nghĩa nhân văn Việt Nam. Trong thời đại mới, chủ nghĩa nhân văn đã phát triển lên đỉnh cao - đó là chủ nghĩa nhân văn Hồ Chí Minh. Đó là sự kết tinh cả chủ nghĩa nhân văn truyền thống, chủ nghĩa nhân văn Đông - Tây và nhân loại xưa nay, mà đỉnh cao là chủ nghĩa nhân văn mác-xít. Chủ nghĩa nhân văn Hồ Chí Minh không chỉ là giá trị về mặt văn hóa mà còn có tầm tinh hoa, tầm triết lý phát triển của dân tộc Việt Nam trong thời đại mới, đã và đang trở thành một nội dung quan trọng của hệ tư tưởng của Đảng và dân tộc ta trên con đường xây dựng và phát triển. Vì vậy, nghiên cứu chủ nghĩa nhân văn Hồ Chí Minh, chính là cơ sở về mặt lý luận và phương pháp luận khoa học để Đảng ta xác định chiến lược phát triển, phát huy mọi nguồn lực trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa hiện nay.

Với dân tộc Việt Nam, Hồ Chí Minh là sự kết tinh những gì tốt đẹp, ưu tú nhất của trí tuệ và tư tưởng, tình cảm và đạo đức, nhân cách và lối sống của con người và dân tộc Việt Nam. Người tiêu biểu cho cốt cách và bản lĩnh của dân tộc, cho bản sắc văn hoá của dân tộc Việt Nam từ truyền thống đến hiện đại. Tinh hoa của dân tộc, lương tâm và khí phách của thời đại đã được thể hiện chân thực và cảm động, trong sáng và đẹp đẽ, cao thượng và bất khuất qua con người, cuộc đời và sự nghiệp của Hồ Chí Minh.

Sở dĩ tư tưởng Hồ Chí Minh hiện thân khát vọng thể hiện các giá trị làm người cao quý, là linh hồn, là ngọn cờ lãnh đạo cách mạng Việt Nam, lương tâm của thời đại, có sức sống bền vững và có ảnh hưởng sâu sắc đến tư tưởng, tình cảm của nhân dân Việt Nam và của nhân dân nhiều dân tộc trên thế giới, cả trong quá khứ, hiện tại và tương lai, chính là vì tư tưởng của Người đã kế thừa những giá trị tư tưởng, văn hóa "vĩnh cửu" của nhân loại thấm đượm một chủ nghĩa nhân văn cao cả, đáp ứng những yêu cầu, nguyện vọng cháy bỏng và sâu xa của dân tộc và nhân loại.

Chủ nghĩa nhân văn Hồ Chí Minh soi đường cho đảng và nhân dân ta trên con đường xây dựng đất nước, nâng cao tư duy lí luận, rèn luyện bản lĩnh chính trị, nâng cao đạo đức cách mạng năng lực công tác, thực hiện tốt các nhiệm vụ trọng đại của Đảng và nhà nước ta.

Một điểm rất nổi bật là tư tưởng nhân văn Hồ Chí Minh có tính vượt thời đại. Đó là sự tuyệt đối tin tưởng vào thắng lợi ngày mai, lo cho tương lai của đất nước. Trong chiến tranh ác liệt, vận mệnh đất nước lâm nguy, nhưng với nhãn quan duy vật biện chứng, Chủ tịch Hồ Chí Minh thấy được thắng lợi tất yếu của cách mạng Việt Nam. Thật hiếm thấy ở một vị lãnh đạo quốc gia nào mà sự quan tâm đến con người, đến nhân dân lại được đặt lên tầm lớn lao, sâu sắc nhưng hết sức cụ thể, thiết thực như ở Chủ tịch Hồ Chí Minh. Tính nhân văn cao cả trong tư tưởng Hồ Chí Minh là đặt hạnh phúc nhân dân lên trên hết. ở Hồ Chí Minh, nhân dân không phải là một khái niệm chung chung, mơ hồ mà là cộng đồng Việt Nam, là đồng bào, là từng con người, từng cuộc đời, từng hoàn cảnh cụ thể. Cho đến lúc đi xa, Người chỉ nghĩ đến sự đoàn kết toàn dân, sự phát triển và tiến bộ của Đảng, của dân tộc; Người vẫn dành muôn vàn tình thương yêu cho mọi người.

Thực tiễn luôn thay đổi không ngừng, bản thân Người đã từ biệt chúng ta về với thế giới người hiền nhưng giá trị nhân văn và phát triển trong tư tưởng của Người vẫn đang tỏa sáng cùng với dân tộc và thời đại. Tư tưởng của Người đã trở thành nền tảng tư tưởng, kim chỉ nam cho hành động của Đảng và cách mạng Việt Nam; là tài sản tinh thần vô giá của dân tộc. Giá trị nhân văn và phát triển của tư tưởng của Người là cơ sở để Đảng Cộng sản Việt Nam xây dựng chủ trương, đường lối phát triển kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội, đối ngoại... nhằm xây dựng một nước Việt Nam phát triển, hướng tới con người, do con người và vì con người trong thời kỳ hội nhập và mở cửa. Nhiều luận điểm và mệnh đề trong tư tưởng nhân văn và phát triển của Người đang phản ánh hơi thở của thời đại, là những giá trị mà nhân loại đang nỗ lực để hướng tới.

Sự nghiệp và cuộc đời giản dị của Chủ tịch Hồ Chí Minh là hình mẫu về một con người nhân văn của thời đại. Con người Hồ Chí Minh là sự thống nhất giữa lòng yêu thương và niềm tin vào con người với ý chí và hành động triệt để nhằm giải phóng dân tộc, giải phóng xã hội và giải phóng con người.

Nét nhân văn cao cả trong tư tưởng Hồ Chí Minh là đặt hạnh phúc của nhân dân lên trên hết. Ở Người, nhân dân không phải là một khái niệm chung chung, mơ hồ mà là cộng đồng Việt Nam, là đồng bào, là mỗi con người, mỗi cuộc đời và từng hoàn cảnh cụ thể. Cho đến lúc đi xa, Người vẫn luôn đau đáu lo cho vận mệnh đất nước. Nhưng Bác đã đặt niềm tin vào sự đoàn kết toàn dân, sự phát triển và tiến bộ của Đảng, của dân tộc. Bác tin một mai đất nước ta sẽ được giái phóng, dân ta sẽ được độc lập tự do. Người luôn luôn dành trọn muôn vàn tình thương yêu cho mọi người con đất Việt. Lời dạy của Bác muôn vàn kính yêu cũng chính là tâm niệm của bao thế hệ. Theo lời dặn của Bác, Đảng và Nhà nước ta luôn dành sự quan tâm tin tưởng đặc biệt vào thế hệ trẻ, đặc biệt là học sinh sinh viên . Đó chính là niềm cổ vũ lớn lao, là lực lượng lao động mạnh mẽ để tuổi trẻ tự tin, vững bước đi lên xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.

Chính vì vậy, bản thân mỗi chúng ta phải không ngừng học tập và làm theo tấm gương của Bác, luôn nâng cao tinh thần và lòng yêu thương con người, yêu thương nhân dân, dám hy sinh vì nghĩa lớn, không màng danh lợi. Đó là những đức tính tốt đẹp mà mỗi người dân Việt Nam cần phải có.

Các thành viên Hội đồng đã tập trung thảo luận, đưa ra các ý kiến nhận xét về ưu điểm của đề tài đó là tác giả đã phân tích, làm rõ những giá trị của tư tưởng nhân văn Hồ Chí Minh, ứng dụng của hệ thống tư tưởng đó trong công cuộc xây dựng đất nước ta hiện nay. Đồng thời khẳng định đề tài đã được thực hiện nghiêm túc, công phu, có tính lý luận và thực tiễn cao, là tài liệu có giá trị tham khảo tốt cho nhà trường cũng như đội ngũ giảng viên giảng dạy các môn chính trị. Bên cạnh đó, Hội đồng cũng chỉ ra một số vấn đề còn tồn tại, hạn chế của đề tài như lỗi đánh máy, in ấn.

Tại buổi nghiệm thu, Th.S Phan Thị Tuyết Mai cũng đã trả lời, làm sáng tỏ những vấn đề mà Hội đồng yêu cầu, đồng thời trân trọng cảm ơn những ý kiến đánh giá khách quan, xác đáng của các thành viên Hội đồng nghiệm thu đã chỉ ra, giúp tác giả tiếp tục bổ sung, điều chỉnh để đề tài khoa học có chất lượng tốt hơn.

Hội đồng bỏ phiếu đánh giá xếp loại đề tài đạt loại xuất sắc. Kết luận phiên nghiệm thu, TS. Phạm Thị Thanh Nga, Chủ tịch Hội đồng ghi nhận và đánh giá cao những kết quả đạt được của đề tài, yêu cầu tác giả tiếp thu đầy đủ những ý kiến đánh giá, nhận xét của Hội đồng để chỉnh sửa, bổ sung, hoàn thiện đề tài đạt chất lượng cao hơn và sớm đưa vào thực hiện, phục vụ hiệu quả cho công tác đào tạo, bồi dưỡng của nhà trường.

 

Bài viết mới

Tin tức nổi bật