Ngành học “Nghệ thuật Chỉ huy Âm nhạc” (music conducting) có nguồn gốc từ xa xưa, khi con người còn sống thành bộ tộc. Lúc đó, việc chỉ huy một tốp người chơi các nhạc cụ gõ, nhảy múa theo nhịp trống được thực hiện bằng cách nhịp chân, gõ cây giáo (vũ khí thô sơ của những người tham gia biểu diễn) xuống nền đất. Mãi đến đầu Tk. V, trong những buổi trình diễn âm nhạc trong các nhà thờ ở châu Âu, cụ thể là La-Mã, Hy-Lạp, mới xuất hiện cách dùng tay vẽ nên những đường cong, hoa mỹ để điều khiển việc ca hát của nhóm người biểu diễn. Việc chỉ huy lúc đó dựa trên chuyển động của tuyến giai điệu. Người ta gọi môn nghệ thuật này là Cheironomy (hay Chironomy1). Ngày nay, ở một số nơi không chuyên nghiệp, vẫn còn tồn tại kiểu chỉ huy ca đoàn (hợp xướng) theo lối này.
Trong nghệ thuật chỉ huy hiện đại (conducting), người chỉ huy không dựa trên chuyển động của giai điệu mà dựa trên nốt nhạc và những ký hiệu âm nhạc trong tổng phổ. Môn nghệ thuật này chỉ được phát triển, rất chậm, từ đầu Tk. XVII. Trong nhà thờ Ki-tô giáo, có một người dùng gậy giữa nhiệm vụ ra dấu hiệu cần thiết cho nhóm người hát. Những dấu hiệu này dần dần được diễn theo tiết tấu của bài nhạc, phối hợp với động tác lên xuống của cây gậy. Đó là hình thức sơ khai của đũa nhịp. Trong thế kỷ này, ngoài gậy chỉ huy, người ta còn sử dụng những dụng cụ khác như: cuộn giấy nhạc, những que nhỏ hơn và cả đôi bàn tay không. Chính cây gậy chỉ huy đã làm dập ngón chân dẫn đến hoại thư và gây ra cái chết cho Jean-Baptiste Lully2 trong khi ông đang chỉ huy bản thánh ca hợp xướng “Te Deum” (Ngài là Thiên Chúa) để mừng nhà vua vừa hồi phục sau một cơn bệnh!
Trong lãnh vực khí nhạc, trước Tk. XIX, thường việc chỉ huy do một thành viên của dàn nhạc đảm nhiệm. Đó có thể là nghệ sĩ violin chính (first violinist) chỉ huy bằng cách dùng chính cây archet của mình, hoặc người chơi đàn lute3 vừa đàn vừa di chuyển cần đàn theo nhịp. Đối với một tác phẩm khí nhạc có phần đệm basso continuo (bè trầm trì tục) thì việc chỉ huy cũng thường do nghệ sĩ đàn clavecin đảm nhiệm. Khi diễn một vở opera lại thường có 2 chỉ huy: nghệ sĩ đàn phím điều khiển các ca sĩ và nghệ sĩ violin chính phụ trách dàn nhạc.
Vào khoảng đầu Tk. XIX, do biên chế dàn nhạc ngày càng lớn rộng, đã bắt đầu có nhu cầu người chỉ huy không cần thiết phải là nhạc công trong dàn nhạc và người ta dùng đũa nhịp để chỉ huy thay vì tay không hay cuộn giấy. Trong số những chỉ huy dàn nhạc nổi tiếng thời đó như: Louis Spohr, Carl Maria von Weber thì Felix Mendelssohn4 được coi là người dẫn đầu và là người đầu tiên dùng đũa nhịp bằng gỗ để chỉ huy như chúng ta thấy ngày nay. Ông cũng được coi như là nhà chỉ huy đầu tiên theo phong cách kỹ thuật, đối nghịch lại với Richard Wagner5 sau này, là người chỉ huy theo trường phái cảm tính (passionate). Cũng có những nhà chỉ huy nổi tiếng (thời đó cũng như ngày nay) không dùng đến đũa nhịp như: Leopold Stokowski, Pierre Boulez, Dmitri Mitropoulos, Kurt Masur và Nikolaus Harnoncourt. Nhạc sĩ chuyên nghiệp đầu tiên sống bằng nghề chỉ huy là Hans von Bülow6.
Công lao đưa nghệ thuật chỉ huy thành một môn học có hệ thống phải kể đến phần đóng góp lớn của Hector Berlioz 7và Richard Wagner vì cả hai là những người đầu tiên soạn thảo những bài viết, đề tài nghiên cứu về chuyên ngành này. Berlioz được coi là nhà chỉ huy xuất chúng cho dù trong suốt cuộc đời mình, ông chưa bao giờ làm việc ăn lương như một nhà chỉ huy, thay vào đó luôn là “chỉ huy khách mời” (guest conductor). Wagner được coi là người có công tạo nên hình ảnh một nhà chỉ huy có toàn quyền đưa ra những quan điểm của riêng mình về tác phẩm, buổi diễn chứ không chỉ là người có trách nhiệm đảm bảo tác phẩm được trình diễn đúng nhịp, đúng phách!
Đến cuối Tk. XX, nhà soạn nhạc người New York, ông Walter Thompson, sáng tạo một ngôn ngữ dấu hiệu để sáng tác “tại chỗ” gọi là soundpainting (vẽ âm thanh). Qua đó, ông giới thiệu trên 750 động tác tay (thủ điệu) để người chỉ huy vừa điều khiển, vừa sáng tác tại chỗ!
Qua việc nhìn lại sơ nét về sự phát triển của nghệ thuật chỉ huy, chúng ta thấy điều khiển hợp xướng8 hay điều khiển dàn nhạc là nghệ thuật chỉ huy cao cấp mà chúng ta chỉ có thể nắm vững sau khi đã qua những khóa huấn luyện chuyên môn và có một quá trình kinh nghiệm. Theo nguyên tắc, trước khi bước vào lãnh vực điều khiển, chúng ta phải có kiến thức đầy đủ về nhạc lý, hòa âm, sáng tác, hình thức và thể loại âm nhạc, lịch sử âm nhạc, thanh nhạc, tính năng nhạc cụ, phối khí (đối với điều khiển dàn nhạc), v.v…Những kiến thức này sẽ tạo cho chúng ta sự tự tin và khả năng để điều khiển người khác.
Cuốn sách này là nhằm cung cấp cho người đọc một số kiến thức căn bản về điều kiển ca đoàn và điều khiển dàn nhạc.
Nội dung sách này gồm 3 phần:
1. Phần I: Kỹ thuật điều khiển tổng quát. (Ở một số nơi còn gọi là “chỉ huy phổ thông”)
2. Phần II : Chỉ huy hợp xướng
3. Phần III : Chỉ huy dàn nhạc
Trong Phần I, trình bày về các vấn đề liên quan đến kỹ thuật điều khiển đã được hệ thống hóa theo tiêu chuẩn quốc tế, như: thế đứng trong khi chỉ huy, biểu đồ hướng dẫn đánh các loại nhịp với kỹ thuật non-espressivo, espressivo, molto espressivo – legato, staccato, marcato, v.v…, kỹ thuật khởi tấu và chấm dứt, kỹ thuật ‘‘hot stove’’, kỹ thuật diễn tả nhạc sắc (những biến đổi về cường độ), kỹ thuật sử dụng tay trái, kỹ thuật điểm bè, v.v…
Phần II đề cập các vấn đề liên quan đến ban hợp xướng9 từ việc thành lập hoặc chấn chỉnh ban hợp xướng, cách sắp xếp, tổ chức tập dượt, phương pháp huấn luyện. Ngoài ra, chúng tôi hướng dẫn cách phân tích nhạc phẩm (musical analysis), nêu lên những tiêu chuẩn để xét giá trị của bản nhạc nhằm mục đích giúp người chỉ huy hợp xướng nắm được những yếu tố để đánh giá một nhạc phẩm trước khi quyết định chọn để tập. Theo kinh nghiệm giảng dạy nhiều năm, chúng tôi thấy vấn đề “Làm sao để lựa chọn bài hát để tập cho ca đoàn?” luôn luôn là thắc mắc hàng đầu của nhiều người phụ trách về âm nhạc cho nhà thờ.
Phần III, đề cập đến khái niệm về nhạc khí, các loại dàn nhạc và cách sắp xếp dàn nhạc. Mục đích của phần này là giúp người đọc làm quen với các loại nhạc khí và chỗ ngồi của các nghệ sĩ trong dàn nhạc để không bỡ ngỡ khi có dịp chỉ huy hợp xướng hoặc dàn nhạc.