1. Bối cảnh lịch sử
Từ sau đại chiến thế giới lần thứ nhất, trên vũ đài chính trị của Việt Nam diễn ra một bước ngoặt lịch sử lớn.Thắng lợi vĩ đại của cách mạng tháng Mười Nga năm 1917 chẳng những mở ra một kỷ nguyên mới trong lịch sử loài người mà còn chiếu một tia sáng mới vào màn đêm dày đặc đang bao phủ các dân tộc thuộc địa và nửa thuộc địa. Nhờ có cách mạng tháng Mười, thông qua các phong trào công nhân và cộng sản Pháp, Trung Quốc… chủ nghĩa Mác - Lênin đã vào Việt Nam.
Qua các cuộc đấu tranh liên tiếp, có tổ chức, ở hầu khắp các ngành trong toàn quốc, giai cấp công nhân Việt Nam đã biểu dương mạnh mẽ lực lượng của mình, với tư cách là một lực lượng chính trị độc lập và ngày càng lôi cuốn theo nó những lực lượng đông đảo của nhân dân lao động Việt Nam.
Muốn thực hiện sứ mệnh lịch sử của mình là lãnh đạo cách mạng Việt Nam và đưa cách mạng Việt Nam đi tới thắng lợi, giai cấp công nhân cần phải thành lập Đảng Cộng sản và phải có cương lĩnh cách mạng rõ ràng. Để hoàn thành nhiệm vụ đó, về mặt tư tưởng trước hết phải vạch trần tội ác của thực dân Pháp, vạch trần mưu mô nô dịch về tư tưởng và văn hoá của chúng, đấu tranh kiên quyết chống tư tưởng cải lương tư sản và phê phán tư tưởng cách mạng quốc gia hẹp hòi. Đồng thời phải vạch cho nhân dân thấy rõ: "Chỉ có chủ nghĩa xã hội, chủ nghĩa cộng sản mới giải phóng được các dân tộc bị áp bức và những người lao động trên thế giới khỏi ách nô lệ", làm cho nhân dân lao động đoàn kết nhau lại trong các tổ chức cách mạng, cùng nhau lật đổ chế độ thực dân, phong kiến.
Chính vì vậy, trong tham luận đọc tại Đại hội toàn quốc lần thứ 18 của Đảng xã hội Pháp ở Tua (Tours), tháng 12 năm 1920, đồng chí Nguyễn Ái Quốc đã mạnh mẽ tố cáo: "Chúng tôi không được hưởng quyền tự do báo chí và tự do ngôn luận, cũng không được quyền tự do hội họp và tự do lập hội. Chúng tôi không được quyền đi ra khỏi nước hay du lịch nước ngoài. Chúng tôi phải sống trong cảnh ngu dốt đen tối nhất vì chúng tôi không có quyền tự do giáo dục. Ở Đông Dương người ta tìm đủ mọi cách để đầu độc chúng tôi bằng thuốc phiện và làm cho chúng tôi ngu si bằng rượu".
Cùng với lập trường phê phán đanh thép đó, trong bản tham luận ở Đại hội Quốc tế Cộng sản lần thứ 6, đồng chí Nguyễn Ái Quốc đặc biệt nhấn mạnh: "Mọi người đều biết rằng để đặt ách thống trị của chúng, bọn cá mập thực dân đã phá hoại tất cả các phong tục tập quán và nền văn minh của dân tộc bị xâm chiếm. Mọi người đều biết rằng muốn biến một dân tộc thành nô lệ thì phải làm cho dân tộc đó càng ít văn hóa chừng nào càng tốt chừng ấy, phải ban cho dân tộc đó "một nền giáo dục theo chiều nằm chứ không phải theo chiều đứng" như tên toàn quyền Méc- lanh đã từng nói"
Cũng trong những năm đầu thế kỷ XX, chúng ta còn thấy xuất hiện trên báo nhân đạo của Pháp, một số truyện ký của đồng chí Nguyễn Ái Quốc: Lời than vãn của bà Trưng Trắc, Vi hành, Những trò lố hay của Varen và Phan Bội Châu, Con rùa, Đoàn kết giai cấp, Con người biết mùi hun khói…. Chính xuất phát từ tác phẩm Truyện và ký mà Nguyễn Ái Quốc trở thành người Việt Nam đầu tiên đặt nền móng cho phương pháp sáng tác nghệ thuật "Hiện thực xã hội chủ nghĩa" trên đất nước ta.
Năm 1922, Nguyễn Ái Quốc viết vở kịch Con rồng tre nhằm chế giễu và đả kích tên vua bù nhìn Khải Định. Đại ý vở kịch là có những cây tre thân hình cong queo được những người chơi đồ cổ đẽo gọt thành con rồng, nó không biết là nó vô dụng mà lại hãnh diện về hình dáng và cái tên con rồng.
Năm 1925, Bản án chế độ thực dân Pháp của Người xuất bản tại Pháp. Đây là một tác phẩm chính luận sắc bén, bằng những tài liệu phong phú và cụ thể, Nguyễn Ái Quốc đã tố cáo chế độ tàn bạo của thực dân Pháp ở Việt Nam và Đông Dương, với giọng văn lúc chua cay, lúc châm biếm mãnh liệt, mang một sức thuyết phục lớn đối với những trí thức tiến bộ và có một ảnh hưởng vang dội trong các nước thuộc địa của Pháp.
Năm 1930, Người viết Nhật ký chìm tàu mà nội dung chủ yếu là nhằm giới thiệu chế độ và con người Xô viết sau Cách mạng tháng Mười Nga thành công.
Những tư tưởng trên đây của đồng chí Nguyễn Ái Quốc sau này trở thành chủ trương ban đầu về văn hoá của Đảng, như: "Tự do báo chí; tự do mở trường, tự do học hành; tự do làm báo, làm sách" (Tuyên ngôn Đảng Cộng sản Đông Dương năm 1931). "Phổ thông giáo dục theo công nông hoá".
Trong lời kêu gọi nhân dịp thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam (3/2/1930), đồng chí Nguyễn Ái Quốc đã nêu khẩu hiệu: "Thực hành giáo dục toàn dân". Đó là quan điểm đầu tiên của Đảng về giáo dục, sau này trở thành một trong những nội dung chủ yếu của cách mạng văn hoá.
Thơ văn Nguyễn Ái Quốc không chỉ khẳng định vị trí của quần chúng nhân dân lao động, của những người cùng khổ mà còn chỉ ra con đường phải đi tới trong sự nghiệp giải phóng dân tộc và giải phóng giai cấp. Đó là con đường của cách mạng tháng Mười do Lênin vĩ đại dẫn đường mà đồng chí Nguyễn Ái Quốc sớm tiếp thu và hành động theo chân lý cách mạng do giai cấp vô sản lãnh đạo.
Từ khi Đảng ta chưa ra đời, các tác phẩm của đồng chí Nguyễn Ái Quốc đã mở ra cho văn nghệ sĩ và các giới văn hoá nước ta một quan điểm mới, thấm đượm thế giới quan Mác xít - Lêninít và nhân sinh quan cộng sản.
Khuynh hướng sáng tác mới được kế tục phát triển trong văn học ở thời kỳ Xô viết Nghệ Tĩnh và văn học của các chiến sĩ cộng sản bị giam cầm trong các nhà tù. Ở thời kỳ Xô viết Nghệ Tĩnh, dòng văn thơ cách mạng vô sản đã hình thành một cách rõ rệt và mạnh mẽ. Văn tế, thất ngôn, bát cú, ngũ ngôn, tràng thiên, song thất lục bát, là những thể loại văn học quen thuộc mang nội dung cách mạng, được các chiến sĩ Xô viết Nghệ Tĩnh chú ý nhiều nhất lúc bấy giờ.
Đó là những hình thức thơ văn gần gũi với quần chúng, lại có nội dung đáp ứng được nguyện vọng của quần chúng: tố cáo tội ác đế quốc, phong kiến, đòi nam nữ bình quyền, đòi quyền lợi cho dân cày, tự do ngôn luận và chống sưu cao thuế nặng.
Nhận định về văn thơ Xô viết Nghệ Tĩnh, đồng chí Tố Hữu viết: "Ngày nay đọc lại những bài ca, bài vè, bài hát cách mạng trước đây, chúng ta càng thấy quý cái hơi thở của cách mạng khỏe mạnh, đầy sức chiến đấu, đầy lòng tin trong một giọng nói hồn nhiên, chất phác chân tình".
Đảng Cộng sản Đông Dương đã xác định vai trò của văn hóa như là một bộ phận của cuộc cách mạng xã hội mà người đảng viên phải hoạt động. Trong điều kiện lịch sử ấy, lại là một nội dung trong một tài liệu mang tính cương lĩnh, văn bản này chưa có điều kiện để nhận thức đầy đủ về bản chất, vai trò, các phương thức của hoạt động văn hóa và điểm mấu chốt trong quan niệm của Đảng lúc này là vẫn nhìn nhận, đánh giá sự đóng góp của văn hóa đối với quá trình phát triển xã hội từ góc nhìn ý thức hệ. Điều này được thể hiện rất rõ trong khi chỉ đạo các phong trào cách mạng sau đó. Từ phong trào Xô Viết - Nghệ Tĩnh những năm 1930 - 1931 cho đến thời kỳ Mặt trận Bình Dân 1936 - 1939, về phương diện văn hóa, quan điểm của Đảng Cộng sản lộ rõ xu hướng đánh giá cao những giá trị thực tiễn, trước mắt của các giá trị văn hóa, phong trào văn hóa, tổ chức văn hóa, các nhà hoạt động văn hóa, nếu như các hoạt động ấy đều tập trung cho sự nghiệp đấu tranh với đế quốc phong kiến, khơi dậy thái độ phản kháng của quần chúng nhân dân, tập trung cho cuộc cách mạng xã hội nhằm đánh đổ đế quốc, phong kiến, giành độc lập cho dân tộc. Đến những năm tiền khởi nghĩa, vấn đề này càng trở nên cấp bách hơn, thiết thực hơn. Nói cho công bằng thì từ khi chiến tranh thế giới thứ hai nổ ra, phát xít Nhật hất cẳng Pháp, thiết lập chế độ cai trị của Nhật trên toàn cõi Đông Dương thì lý thuyết Đại Đông Á không phải không có những ảnh hưởng đến tâm thế xã hội, đến những xu hướng văn hóa - xã hội khác nhau của các phong trào văn hóa. Trong thực tiễn, bên cạnh những nhận thức đúng và đủ về chính sách văn hóa chính thống, không ít nhà tư tưởng, nhà hoạt động văn hóa vẫn còn có những mơ hồ, lệch lạc trước những chính sách văn hóa và triển vọng của văn hóa Việt Nam. Chính vì vậy Đề cương văn hóa Việt Nam 1943 do đồng chí Trường Chinh với tư cách là Tổng Bí thư của Đảng khởi thảo, đã thể hiện khá đầy đủ quan niệm của Đảng về vai trò của văn hóa đối với cuộc cách mạng giải phóng. Mục tiêu cứu quốc được đặt ra đầu tiên và gần như xuyên suốt bản Đề cương văn hóa 1943, tư tưởng cứu quốc, cương lĩnh của một nền văn hóa cứu quốc được xác định, lý giải, yêu cầu gắn liền với cuộc cách mạng xã hội. Tình hình chính trị, xã hội đang có nhiều diễn biến phức tạp. Trên lĩnh vực văn hóa, nhiều xu hướng khác nhau đang chi phối đời sống tinh thần của dân tộc. Nhiều người phân vân trước học thuyết Đại Đông Á của Nhật, không ít người đã lầm tưởng rằng, đây chính là một cơ hội để văn hóa Việt Nam phục hưng, do được hưởng lợi từ quan niệm “đồng chủng đồng văn” của người Nhật, được “trở về” với nguồn gốc Á đông sau một thời gian dài bị nô dịch bởi người Pháp. Những tư tưởng triết học của phương Tây được giới thiệu ở Việt Nam lúc này như triết học Đêcác, Berson, Căng, Nitsơ cũng đang có nguy cơ gây lạc đường cho nhiều trí thức trẻ chán ghét những tư tưởng cũ nhưng chưa tìm ra được hướng đi mới cho đời mình. Xu hướng nệ cổ, xu hướng cực đoan trong học thuật, những bế tắc của văn chương…(chủ nghĩa lãng mạn đã đi vào bế tắc, chủ nghĩa hiện thực đã đi đến giai đoạn cuối của nó và dần lộ ra những dấu hiệu không còn tính chiến đấu mạnh mẽ như giai đoạn đầu và những năm 1936 - 1939) tạo ra một không khí ngột ngạt, bế tắc trong đời sống tinh thần. Trong “đêm trước của cuộc cách mạng”, bản Đề cương văn hóa Việt Nam mà chúng ta hay gọi là Đề cương văn hóa 1943 ra đời đã đem lại một không khí mới cho văn hóa Việt Nam. Với Đề cương văn hóa Việt Nam, lần đầu tiên Đảng Cộng sản đưa ra một cương lĩnh văn hóa, mà ở đó nội dung, tính chất, tổ chức, định hướng phát triển của một cuộc cách mạng văn hóa chỉ có thể gắn với cuộc cách mạng giải phóng dân tộc và tương lai của nền văn hóa ấy sau khi cách mạng đã thành công. Đề cương văn hóa Việt Nam, vì vậy, có tác dụng định hướng cả về hướng đi, cách thức xây dựng và hoạt động nên nó có tác dụng lâu dài với cách mạng Việt Nam.Vì trong điều kiện hoạt động bí mật, bản Đề cương dù sao cũng mới chỉ dừng lại ở những định hướng lớn, những nguyên tắc mang tính chất nền tảng, nhiều vấn đề cũng mới chỉ được nêu ra ở những định hướng lớn mà chưa có điều kiện đi sâu vào những nội dung cụ thể, những quan hệ phức tạp trong nội hàm khái niệm. Sau khi cách mạng thành công, đồng chí Trường Chinh đã viết một bài tiểu luận dài có nhan đề Mấy nguyên tắc lớn của cuộc vận động văn hóa Việt Nam lúc này và báo cáo chủ nghĩa Mác và văn hóa Việt Nam nhằm giải thích rõ hơn nhiều vấn đề trước đó Đề cương chưa có điều kiện làm rõ. Sở dĩ phải nói thêm như vậy, vì thứ nhất, do tính chất ngắn gọn của Đề cương, nhiều vấn đề chưa được cụ thể, nhiều định hướng chưa có dịp trình bày chi tiết và cũng có cả những vấn đề chưa được nói tới. Ở những văn bản sau này, tác giả của Đề cương đã trình bày kỹ hơn, giải thích rõ thêm nhiều nội dung của Đề cương, nhưng ở trong bài viết này, chúng ta vì tôn trọng tính lịch sử của văn bản, sẽ không mở rộng, bàn thêm, bàn ra ngoài những điều đã được nói tới, cho dù những điều đó hoàn toàn có logic về mặt nội dung khoa học, về sự liền mạch của tư tưởng và trên thực tế, những gợi mở, đề xuất đầu tiên này đã được triển khai, vận dụng trong suốt chiều dài vận động của văn hóa Việt Nam từ bấy đến nay. Thêm nữa, sau khi chính quyền đã thuộc về nhân dân, Đảng Cộng sản đã thực hiện quyền lãnh đạo của mình nên đã phát triển thêm nhiều nội dung mà Đề cương chỉ mới đề cập đến mà chưa có sự luận giải hoặc luận giải chưa thuyết phục. Sự nhất quán của quan điểm chỉ đạo ở trong mấy văn bản này là điều dễ nhận thấy và những nguyên tắc về một nền văn hóa thuộc về tương lai, tầm nhìn và sự minh triết của nó đã đặt nền tảng cho sự phát triển của văn hóa Việt Nam từ bấy đến nay là sự thực lịch sử không thể không thừa nhận.
2. Nội dung cơ bản trong đường lối văn hóa của Đảng
Nhiều người đã nói tới việc từ trước khi Đề cương ra đời, Đảng Cộng sản Việt Nam đã không ít lần nói tới vấn đề văn hóa và cách mạng văn hóa trong cuộc cách mạng dân tộc dân chủ. Nói như thế là đúng với lịch sử nhưng cũng cần phải khẳng định rằng, chỉ đến Đề cương, những vấn đề về một nền văn hóa mới do Đảng lãnh đạo mới được đặt ra một cách công khai, đầy đủ, toàn diện và mang tính chiến lược. Tính chất cách mạng của nền văn hóa mới được nhấn mạnh. Nhưng điều cũng cần nói rõ hơn ở đây là Đảng coi cuộc cách mạng của nền văn hóa ấy phải gắn liền với cuộc cách mạng xã hội sắp diễn ra, cần tập trung toàn bộ sức lực, hoạt động cho mục tiêu cứu quốc. Tính chất cứu quốc của Đề cương, vì vậy rất đậm nét. Bản Đề cương bao gồm nhiều nội dung lớn, sau mỗi vấn đề lại được chia ra thành những nội dung nhỏ hơn nhưng có khả năng bao quát nhiều lĩnh vực, nhiều nội dung, trong đó có cả những giả thuyết của văn hóa Việt Nam trong tương lai, tính chất của nền văn hóa ấy và những phương thức lãnh đạo của Đảng trong lĩnh vực văn hóa. Cũng trong văn bản này, lần đầu tiên Đảng đặt vấn đề về văn hóa trong cách mạng dân tộc dân chủ, đánh giá (sơ lược) lịch sử văn hóa Việt Nam, những nguy cơ của văn hóa Việt Nam dưới ách đô hộ của ngoại bang, vấn đề cách mạng văn hóa Việt Nam, những nguyên tắc vận động văn hóa mới, tính chất của nền văn hóa mới, những phương thức vận động văn hóa mới trong cuộc cách mạng sắp diễn ra và sau khi đã thành công v.v…, nghĩa là lần đầu tiên, Đảng nêu ra một Đề cương vận động, một Cương lĩnh (có thể nói như thế) về một nền văn hóa phải có, sẽ có trong và sau khi cuộc cách mạng dân tộc dân chủ hoàn thành và tiếp đó là cuộc cách mạng xã hội chủ nghĩa như là một bước tiếp theo tất yếu phải có của cuộc cách mạng xã hội. Đề cương nói về một cuộc cách mạng văn hóa trong tương lai, hoàn toàn khác trước đây cũng như hiện tại từ một cách nhìn hoàn toàn mới, mang tinh thần cách mạng chứ không phải là những cải cách, thay đổi. Bởi vậy, phải nhìn nhận nó từ những quan điểm mới: cách nhìn theo quan điểm Mác xít về một nền văn hóa mới được xây dựng dưới thể chế chính trị - xã hội hoàn toàn mới. Những tư tưởng văn học mới cũng được xem như một bộ phận, một lĩnh vực của văn hóa mới Việt Nam. Ở đây, nên chú ý tới luận điểm của GS Đào Duy Anh trong Việt Nam văn hóa sử cương, tới một sự gặp gỡ không phải do những tương đồng về nhận thức chính trị nhưng từ cách nhìn mang đậm cảm thức yêu nước và tinh thần dân tộc, GS Đào Duy Anh trong công trình viết năm 1938, trước cương lĩnh về văn hóa của Đảng 5 năm, đã cho rằng, đứng trước một cuộc vận động xã hội, một cuộc đảo lộn lớn cần “soát xét lại” những di sản văn hóa của dân tộc để biết mình, biết người, biết lựa chọn ra cái gì hữu dụng để đương đầu với thử thách mới, biết cái gì cần loại bỏ để cho mình mạnh lên. Tư tưởng ấy thể hiện sự minh triết của nhà khoa học. Đồng thời cũng cần nói thêm rằng từ sau năm 1930, GS Đào Duy Anh không hoạt động chính trị nữa, chỉ thuần túy làm khoa học, nhưng có lẽ nhãn quan chính trị, bản lĩnh chính trị đã giúp GS có một quan điểm rất gần với quan niệm của Đảng về các vấn đề của văn hóa truyền thống, đời sống văn hóa bấy giờ. Không có tư liệu để khẳng định rằng, Trường Chinh đã có đọc Việt Nam văn hóa sử cương và chịu ảnh hưởng quan niệm này, nhưng rõ ràng về quan niệm, cách tiếp cận các vấn đề của văn hóa, xã hội, con người của hai công trình này có rất nhiều điểm tương đồng. Đó là điều đáng mừng vì qua hiện tượng này có thể có thêm bằng chứng để khẳng định, vì sao cuộc Cách mạng Tháng Tám năm 1945 có sức lôi cuốn nhiều trí thức, các nhà hoạt động xã hội có xu hướng chính trị khác với Đảng Cộng sản đến với cuộc cách mạng do Đảng lãnh đạo như vậy.
Đề cương nêu ra ba phương châm lớn (văn bản gọi là ba nguyên tắc) của cuộc “vận động văn hóa mới Việt Nam trong giai đoạn này” là dân tộc hóa, đại chúng hóa và khoa học hóa, ở mỗi mục đều có giải thích rõ nội dung cơ bản của phương châm đó là gì. Dân tộc hóa là “chống mọi ảnh hưởng nô dịch, thuộc địa, khiến cho văn hóa Việt Nam phát triển độc lập”, đại chúng hóa là “chống mọi chủ trương hành động làm cho văn hóa phản lại đại chúng hoặc xa đông đảo quần chúng” và khoa học hóa là “chống lại tất cả những gì làm cho văn hóa trái khoa học, phản tiến bộ”. Ba nguyên tắc lớn này phải thắng trong cuộc đấu tranh chống lại “những xu hướng bảo thủ, triết trung, lập dị, bi quan, thần bí, duy tâm v.v…”đồng thời cũng chống cả “xu hướng văn hóa quá trớn của bọn Tờ rốt kít”. Rõ ràng, ba nội dung, ba phương châm, ba nguyên tắc này đã vạch ra những đường hướng cơ bản cho một nền văn hóa mới ở mục tiêu phải đạt đến, tính chất phải có và cả những nội dung cơ bản của nó. Ở những nguyên tắc lớn này, những yêu cầu về mặt chính trị, tư tưởng hệ được đặt ra ở bình diện thứ nhất. Nó mang tính nguyên tắc cao, rạch ròi nhưng vì thế cũng dễ thành khuôn cứng, dễ bỏ qua những vấn đề, hiện tượng nằm giữa những ranh giới ấy hoặc những nội dung mang tính kế thừa hoặc giao thoa giữa những nguyên tắc, lĩnh vực, giai đoạn. Ví dụ, nếu xét về mặt bản thể, những tư tưởng nhân văn của các thời kỳ văn hóa trước đó thuộc về những xu hướng, trào lưu, dòng văn hóa ngoài văn hóa tân dân chủ hay xã hội chủ nghĩa. Mặt khác, có những giá trị văn hóa cũng mang tính lịch sử, có thể không phù hợp với tính chất, nội dung, yêu cầu của một nền văn hóa mới, nhưng đồng thời trong nó cũng có những yếu tố, nói như V. Lê nin, lại thuộc về nhân dân, mang tính chất dân chủ và xã hội chủ nghĩa. Vấn đề là ở chỗ tiếp thu và “khước từ di sản nào” theo cách nói của V.Lênin ở đây chưa được vạch ra một cách thuyết phục. Vạch một đường ngăn giữa các giai đoạn, dòng…như thế dễ dẫn đến những cứng nhắc, những thiệt thòi và lúng túng khi phải giải quyết những trường hợp cụ thể. Điều này đã xảy ra trong thực tiễn khi đánh giá, phê phán, tiếp thu những di sản văn hóa quá khứ hoặc đụng đến những vấn đề đương đại vốn không đơn giản. Đề cương đặt vấn đề ba phương châm, thực chất là ba tính chất là gắn với truyền thống dân tộc, thuộc về nhân dân và thấm nhuần tinh thần khoa học như ba trụ cột cơ bản, đảm bảo cho văn hóa Việt Nam phát triển. Sau này, khi đã giành được chính quyền, Đảng Cộng sản đã nói rõ hơn thái độ của mình trong lĩnh vực văn hóa là phải gắn bó chặt chẽ với đời sống dân tộc, với truyền thống di sản của ông cha, gắn bó với đời sống nhân dân, phục vụ nhân dân và tất cả thái độ tiếp cận từng vấn đề, cả trong tiếp nhận di sản, trong nghiên cứu khoa học hay sáng tạo thì tư tưởng vì dân tộc, đại chúng với một thái độ khách quan, đúng đắn của một nhãn quan khoa học vẫn là những nguyên tắc quan trọng nhất. Nếu chỉ nhìn nhận văn bản này như là sự chuẩn bị trong đêm trước của cuộc cách mạng xã hội, đã thấy tính chất thực tiễn và khoa học của cách tiếp cận vấn đề, mà nếu nhìn lại lịch sử hơn 70 năm ra đời và tác động đến đời sống của những quan điểm văn hóa này, mới thấy hết tầm nhìn xa trông rộng của những tư tưởng lớn về văn hóa.
Không phải là một văn bản nghiên cứu mà là một đề cương các nội dung, nguyên tắc chỉ đạo cho một cuộc vận động, đề cương hành động mà cái đích của nó là một cuộc cách mạng văn hóa trên cơ sở gắn với một cuộc cách mạng xã hội, không nhắm vào mục tiêu “cải cách văn hóa” mà là “cách mạng văn hóa”, Đề cương đã nêu ra những “nhiệm vụ cần kíp” của những nhà văn hóa Mác xít trong thực tiễn là bằng mọi cách “chống lại văn hóa phát xít phong kiến, thoái hóa, nô dịch, văn hóa ngu dân và văn hóa phỉnh dân” để “phát huy văn hóa dân chủ”, trong đó “tranh đấu về học thuật, tư tưởng” (các trường phái triết học sai lầm “có ảnh hưởng tai hại” như triết học Khổng, Mạnh, chủ nghĩa duy tâm của Đêcac, Becson, Căng, Nitsơ v.v.. và phải khẳng định được vai trò của chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử; đấu tranh về “tông phái văn nghệ”, làm cho “xu hướng tả thực xã hội chủ nghĩa thắng”, về tiếng nói, chữ viết, phối hợp trên các lĩnh vực bí mật và công khai, tuyên truyền, xuất bản, tổ chức các nhà văn, tăng cường sự lãnh đạo của Đảng v.v…Tính chất trực diện, cách thức vận động và những nội dung được nêu ra rất cụ thể. Như đã trình bày ở trên, do quan niệm mà các lĩnh vực tư tưởng, học thuật, sáng tác văn nghệ được Đề cương nêu lên trước hết. Ở phần cuối này, những lĩnh vực ấy cũng được nhắc lại, trong đó nêu yêu cầu đấu tranh về trường phái, xu hướng (trong văn bản gọi là tông phái) phải được đặt lên hàng đầu, phải giải quyết từ cơ sở tư tưởng, cơ sở triết học làm nền tảng cho những học thuyết, trường phái ấy. Mục tiêu chính trị được đặt lên hàng đầu nên trong những nội dung được đề cập đến ở đây những vấn đề ấy cũng được đặt ở vị trí trọng yếu nhất. Trong đời sống văn chương bấy giờ, sự khủng hoảng, bế tắc của các trường phái lãng mạn, hiện thực, nhất là lãng mạn, đã bộc lộ rất rõ. Văn học lãng mạn, sau giai đoạn phát triển đầy mạnh mẽ, có nhiều đóng góp của nó, đã rơi vào khủng hoảng. Sự xuất hiện của những tổ chức và sáng tác của một số người cuối những năm 1930, đầu những năm 1940 đã báo hiệu sự đi xuống và xuất hiện những mầm mống bệnh hoạn, điều mà Nguyễn Tuân sau này nói là “nguy cơ của cả một nền văn học”. Chủ nghĩa hiện thực cũng đi qua giai đoạn phát triển cao nhất, đã có những thành tựu rực rỡ nhất và cũng thấp thoáng những dấu hiệu suy yếu hơn trước. Tính chiến đấu yếu hơn; năng lực phê phán xã hội thiếu mãnh liệt và trực diện hơn những năm 1936 - 1939. Đại diện xuất sắc nhất ở giai đoạn này như Nam Cao tuy vẫn sắc sảo, sâu sắc nhưng những vấn đề chính mà ông quan tâm như sự tha hóa của con người lại không hướng tới những xung đột xã hội, giai cấp, những hoàn cảnh rộng, mà đi vào những vấn đề đạo đức cá nhân, sự tồn vong của các cá nhân và những vấn đề của chính nó. Không phải cứ đi vào những vấn đề có ý nghĩa bao quát đến toàn xã hội, đám đông mới có cơ sở để tạo nên những tác phẩm lớn, nhưng vấn đề bấy giờ Đảng chủ trương hướng đến là những xung đột xã hội, giai cấp, vấn đề số phận dân tộc, đất nước hơn là vấn đề của số phận cá nhân. Chiến tranh, khủng hoảng xã hội đã làm cho văn học đánh mất dần đi những giá trị tích cực vốn có của nó nên Đề cương đặt vấn đề đấu tranh với những quan điểm duy tâm, siêu hình, những xu hướng thần bí, tắc tị trong văn chương, đấu tranh về tông phái văn nghệ là hoàn toàn căn cứ vào tình hình thực tiễn của đời sống văn học - một phương tiện có tác động khá trực tiếp đến đời sống tinh thần của xã hội.
Như vậy, Đề cương văn hóa 1943: Là cương lĩnh đầu tiên của Đảng Cộng sản Việt Nam về lĩnh vực văn hóa, có thể nói rằng, những định hướng lớn về một nền văn hóa cần có, phải có trong tương lai, khi mà cuộc cách mạng dân tộc, dân chủ chưa thành công, đã được hình thành trên những phương hướng, nội dung quan trọng nhất. Nhìn nhận nền văn hóa ấy phải được xây dựng trên cơ sở của một hình thái kinh tế - xã hội mới, do Đảng lãnh đạo, phải trở thành một “mặt trận” mà người cộng sản phải nắm lấy, lãnh đạo và bắt nó phục vụ cho cuộc cách mạng xã hội là một bước tiến về nhận thức của Đảng về văn hóa. Đảng chủ trương có lãnh đạo được văn hóa “đảng mới ảnh hưởng được dư luận, việc tuyên truyền của đảng mới có hiệu quả”. Hiển nhiên, từ trong văn bản này, tư tưởng dùng văn hóa, trong đó có văn nghệ như một phương tiện phục vụ cho công tác tuyên truyền, vận động quần chúng làm cách mạng theo những mục tiêu của Đảng đã được xác định như những nhiệm vụ xã hội của văn nghệ. Quan niệm ấy xuyên suốt cho đến những giai đoạn sau. Tư tưởng này vừa tạo nên sự thống nhất, tập trung của văn nghệ, vừa tiềm ẩn những bất cập của nó như đề cao tính chất tuyên truyền, chức năng nhận thức, phản ánh, giáo dục, khẳng định bản chất xã hội của văn nghệ mà ít chú ý đến đặc trưng của nó. Trong hoàn cảnh bấy giờ, đưa ra được những vấn đề này, biến nó thành tư tưởng để vận động cho một nền văn hóa mới, chưa có hoặc chính xác hơn là mới chỉ là những mầm, những nụ, chưa được thừa nhận nhưng đã chứng tỏ sức sống của nó là một sáng tạo của Đảng, bởi chỉ có nêu ra được những hướng đi như thế mới có khả năng tập hợp được lực lượng và Đề cương trở thành tài liệu đầu tiên, quan trọng và duy nhất, có tác dụng tập hợp lực lượng rất lớn những người có tư tưởng tiến bộ bấy giờ trong mặt trận Văn hóa cứu quốc. Cần phải nhìn thấy tính chất cứu quốc, tinh thần Phục hưng và cả tinh thần Khai sáng của Đề cương văn hóa mới này, nhận thức được tính chất tiên phong, mở đường của nó cho các văn nghệ sĩ trở về với dân tộc, gắn bó với nhân dân trong sự nghiệp cầm bút của mình mới thấy hết được thái độ của Đảng không chỉ đối với cuộc cách mạng xã hội mà còn là những mong muốn xây dựng một nền tảng tinh thần mới cho xã hội trong tương lai.
Coi văn hóa là một mặt trận và sức sống của nó chỉ có thể được khẳng định trong những thử thách ở đời sống, Đề cương đã hơn một lần nhấn mạnh đến sự cần thiết, tính chất “cách mạng”, “mới” của nền văn hóa đi liền với cuộc cách mạng dân tộc dân chủ. Và chỉ có hoàn thành cuộc cách mạng này thì cách mạng xã hội mới được coi như thành công. Trong những năm tháng ấy, đánh giá về vai trò to lớn và sự cần thiết của văn hóa với đời sống xã hội là một bước tiến lớn về nhận thức của Đảng đối với văn hóa dân tộc.
Những phương châm dân tộc, khoa học và đại chúng, cho đến tận bây giờ vẫn chứng tỏ tính chất đúng đắn về đường hướng nhưng cũng cần phải nhìn thấy và đánh giá đúng mức những điều còn giản đơn trong cách giải thích nội dung khái niệm, cách gò những yêu cầu chính trị vào nội dung khoa học của khái niệm. Nhưng điểm quan trọng nhất là qua bao nhiêu thăm trầm, biến động, con đường trở về với nhân dân, dân tộc, gắn bó máu thịt với cuộc sống của nhân dân mới là điều kiện tiên quyết đảm bảo cho văn hóa dân tộc phát triển.
Từ quan điểm lịch sử, không thể không nhận thấy những khiếm khuyết của Đề cương, như trong xác định phạm vi đối tượng, lĩnh vực văn hóa, những nét đặc thù của khái niệm cũng như trong đánh giá di sản, xác định tính chất hoặc phân kỳ lịch sử hình thành và phát triển của văn hóa dân tộc v.v…Điều ấy hoàn toàn có thể hiểu được bởi trong những điều kiện hoạt động bất hợp pháp, thiếu thốn tư liệu, mặt bằng lý luận còn thấp,v.v…đã không cho phép tác giả đi sâu vào những vấn đề chuyên môn. Mặt khác lại cũng phải nhận thấy đây là một bản Đề cương.
3.Những thành tựu văn hóa và bài học lịch sử
Đề cương văn hóa, và các giá trị văn hóa được xem như là một chương trình, kế hoạch hành động mang tính chất cương lĩnh của một tổ chức chính trị ở một lĩnh vực vốn rộng về phạm vi, phong phú về nội dung, khó có quan điểm thống nhất ngay cả với những nhà chuyên môn, phức tạp về cách tiếp cận và quan điểm đánh giá…thì những nét lớn nhất của Đề cương, sau hơn 70 năm vẫn giữ được tính đúng đắn về mặt khoa học và tính thực tiễn về mặt vấn đề. Đó là một thành công, một đóng góp của Đảng đối với văn hóa dân tộc, không thể phủ nhận. Lướt qua những giai đoạn phát triển, đổi thay hơn 70 năm qua, nhìn lại những quan điểm lớn nhất của Đảng về văn hóa mới thấy hết những minh triết của cách tiếp cận vấn đề, tính thực tiễn và khoa học của những luận điểm. Bao trùm lên tất cả là tính chất cách mạng, thái độ nhất quán và những nguyên tắc của Đảng về một nền văn hóa mới, được định hướng ngay từ khi nó chưa được xác lập, chưa thật rõ hình hài nhưng những cái mới của nó đã hé lộ, sức sống của nó ngay từ những buổi đầu tiên đã được khẳng định. Chính vì thế mà tương lai của những tư tưởng lớn ấy, những định hướng ấy đã bám rễ vào đời sống và chứng tỏ sự đúng đắn ngay từ những buổi đầu.
Bài học lớn nhất, bao trùm và xuyên suốt từ Cách mạng Tháng Tám 1945 đến nay là Đảng ta đã đưa ra được một cương lĩnh về một nền văn hóa tập trung cho nhiệm vụ cứu quốc và mục tiêu ấy đã thành công. Gắn bó với đời sống dân tộc, với những nhiệm vụ chính trị, xã hội xuyên suốt gần một thế kỷ tồn tại, nhiệm vụ cứu quốc, kháng chiến, kiến quốc, mở đường cho những phong trào yêu nước, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, nền văn hóa Việt Nam từ sau 1945 đến nay đã đóng góp một phần quan trọng vào lịch sử đương đại. Tư tưởng cứu quốc với khẩu hiệu “Tổ quốc trên hết” đã trở thành ngọn cờ tập hợp lực lượng, khơi dậy ở mỗi người dân, cộng đồng, dân tộc, đảng phái, tôn giáo lòng yêu nước và khát vọng độc lập. Tinh thần cứu quốc của văn hóa trở thành mệnh lệnh của cuộc sống, được nhận thức sâu sắc ở cả tầm lãnh đạo lẫn trong nhận thức, tình cảm và hành động của mỗi cá nhân. Theo hồi ức của các nhà hoạt động văn hóa Cứu quốc thì nhờ có những hoạt động hiệu quả này mà trong Quốc dân đại hội Tân Trào, đại biểu của Văn hóa cứu quốc đã có vị trí quan trọng và trong thời gian trước, trong, sau cuộc Cách mạng Tháng Tám năm 1945, tinh thần cứu quốc của văn hóa đã có ảnh hưởng sâu rộng trong đời sống nhân dân, tập hợp thành một lực lượng hùng hậu ủng hộ cách mạng.
Sự cởi mở về khâu tập hợp lực lượng, đoàn kết toàn dân, cố kết cộng đồng trong những ngày đầu cách mạng đã làm thay đổi nhận thức xã hội. Sự tin yêu vào chủ trương cứu quốc, văn hóa soi đường cho quốc dân đi, đã khiến nhiều văn nghệ sĩ, nhân sĩ, các nhà hoạt động văn hóa từ bỏ quan niệm cũ, chấp nhận một thế giới quan và nhân sinh quan mới. Đây là cuộc nhận đường đầu tiên của đội ngũ trí thức để đến với Cách mạng. Họ là những người tiên phong đi đến với cách mạng và là lực lượng chủ chốt để tham gia xây dựng nền văn hóa mới.
Khi mục tiêu đã xác định, Đảng đã thành lập ra một tổ chức phù hợp để lãnh đạo văn hóa, gây ảnh hưởng trong đội ngũ trí thức, tập hợp lực lượng để tuyên truyền trong nhân dân, giác ngộ những lực lượng có ảnh hưởng trong xã hội nhưng chưa hiểu và đi theo đường lối của Đảng. Đó là một kinh nghiệm quý báu, sau này được vận dụng và phát huy hiệu quả trong sự nghiệp chống Mỹ và tay sai ở miền Nam, nhất là trong việc thành lập Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam, Mặt trận Dân chủ và các phong trào xã hội chính trị khác.
Lấy thực tiễn làm tiêu chuẩn theo tinh thần biện chứng, chủ trương văn hóa soi đường cho quốc dân đi, kháng chiến hóa văn hóa và văn hóa hóa kháng chiến là sự vận dụng sáng tạo chủ trương coi văn hóa như một bộ phận của cuộc cách mạng xã hội, vừa có tính chất then chốt, mở đường, vừa là một bộ phận không thể tách rời của cuộc cách mạng xã hội. Do tình hình chiến tranh kéo dài, chủ trương này sau đó bị đơn giản hóa thành quan niệm văn hóa phục vụ chính trị, phản ánh các nhiệm vụ của cuộc đấu tranh chính trị nên đã có ảnh hưởng tiêu cực đến sự phát triển đa dạng của văn hóa.
Do chưa nhận thức đúng đắn, đầy đủ về những đặc trưng của văn hóa, trong quản lý, chỉ đạo một lĩnh vực vừa mới mẻ, vừa chuyên sâu lại đang hình thành, nên dần dần cả trong chỉ đạo lẫn trong tổ chức thực hiện đường lối văn hóa kháng chiến bộc lộ những nhược điểm như giáo điều, công thức, chính trị hóa nhiều nội dung rất chuyên sâu của văn hóa, làm phương hại đến sự lan tỏa của mục tiêu cách mạng. Những nhược điểm này còn kéo dài ra những năm sau.
Bản Đề cương Văn hoá Việt Nam do Tổng bí thư Trường Chinh soạn thảo năm 1943