TÌM HIỂU PHONG TỤC CƯỚI HỎI CỦA NGƯỜI THÁI Ở MIỀN TÂY XỨ NGHỆ

TS. Phạm Thị Thanh Nga

Giảng viên Trường CĐ VHNT Nghệ An

Tóm tắt:

Thời kì đổi mới, người Thái miền Tây xứ Nghệ đã và đang dần chuyển mình hội nhập về văn hóa và các lĩnh vực khác của đất nước. Song những phong tục, nghi lễ cưới hỏi mang đậm bản sắc văn hóa của người Thái sẽ luôn tồn tại mãi với thời gian.

1. Đặt vấn đề

Phong tục tập quán là những thói quen, những quy định được tuân thủ qua nhiều thế hệ của một cộng đồng người, mang tính ổn định, thành nền nếp, được cộng đồng thừa nhận và tự giác thực hiện. Mỗi dân tộc sinh sống trên dải đất Việt Nam đều có phong tục tập quán riêng, thể hiện rõ nhất trong việc tổ chức các hoạt động liên quan đến các bước quan trọng trong chu trình của đời người từ khi sinh ra cho đến khi kết thúc cuộc đời. Trong thời kỳ hội nhập văn hóa hiện nay, nhiều phong tục của người Thái miền Tây xứ Nghệ đã bị biến đổi. Tuy nhiên, một số phong tục, tập quán được coi là bản sắc của người Thái vẫn được duy trì, gìn giữ. Trong đó đáng chú ý phong tục cưới hỏi.

2. Khái quát về phong tục cưới hỏi của đồng bào Thái miền Tây xứ Nghệ

Từ thuở biết trồng cây lúa, cây ngô, biết lấy sừng trâu làm vòi đong rượu cần, cũng là lúc con trai, con gái Thái biết trao gửi tình ý với nhau. Tình yêu đôi lứa của con trai, con gái Thái cũng mộc mạc, tự nhiên như cỏ cây, hoa lá, như măng mọc trên rừng và mãnh liệt, bất tận như mạch nguồn của dòng sông, con suối. Khi đã đem lòng thương nhau, để tình yêu đơm hoa kết trái, họ sẽ tiến tới một lễ cưới long trọng, thiêng liêng. Chuyện hôn nhân của các cặp nam nữ thanh niên khi trưởng thành từ bao đời nay đã trở thành quy luật của toàn xã hội. Cũng như những đồng bào dân tộc thiểu số ở các vùng miền khác, đối với đồng bào dân tộc Thái ở miền Tây Nghệ An, việc cưới hỏi có những quy ước rất chặt chẽ, được thể hiện thông qua các nghi lễ, nghi thức, dần trở thành một nét văn hóa đặc sắc được giữ gìn cho đến ngày nay.

Cũng như nhiều dân tộc anh em khác ở Nghệ An, từ xa xưa, trai gái người Thái đến tuổi trưởng thành được chủ động tìm bạn đời cho mình. Theo tục lệ cũ, nghi thức cưới hỏi của dân tộc Thái được tiến hành qua nhiều bước. Đôi trẻ sau một thời gian tìm hiểu, mong muốn đi đến hôn nhân sẽ báo cho bố mẹ hai bên cùng biết. Sau đó, hai bên tiến hành nghi lễ “Dướn dăng” (có nghĩa là Lễ dạm ngõ), tức là nhà trai sang nhà gái để hỏi vợ cho con. Trong buổi dạm ngõ, sau khi gia đình hai bên đã ưng thuận, sẽ thống nhất với nhau ngày lành, tháng tốt để tổ chức đám cưới. Một phong tục hết sức đặc biệt của đồng bào Thái đó là từ ngày dạm ngõ cho đến ngày cưới, bắt buộc tháng nào, bên nhà trai cũng phải đưa lễ gồm rượu, cơi trầu… sang thăm nhà vợ. Nghi thức này người Thái gọi là “Pay gia mươn” (có nghĩa là “Thăm tháng”).

Trong hôn nhân của người Thái còn có tục Thách cưới. Trước đây, nhà gái thách cưới nhà trai 2 nén bạc và 1 con nghé, thì nay đã được thay bằng tiền mặt. Trong trường hợp nhà gái thách cưới cao hơn thì cô dâu phải chuẩn bị nhiều đồ đạc, nữ trang bỏ trong một cái gùi (còn gọi là “bế”). Đến ngày rước dâu, một nữ thanh niên bên nhà trai đảm nhận việc khiêng cái gùi này về nhà chú rể. Nét khác biệt trong phong tục cưới hỏi của người Thái với các đồng bào dân tộc khác là trong thời gian chờ đến ngày cưới, nhà gái phải chủ động sắm sửa hết mọi thứ, từ dệt vải, thêu thùa, mua váy, khăn đội đầu, chăn, gối, nệm… Bên họ nhà trai có đầy đủ ông bà, bố mẹ, anh chị, o chú, bác thì bên nhà gái phải chuẩn bị đầy đủ quà cáp cho từng người như gối, nệm, quần áo… Nhà gái sắm được bao nhiêu đồ thì nhà trai phải chuẩn bị người khiêng lễ gấp đôi. Chẳng hạn, nhà gái mua 4 cái nệm thì nhà trai phải chuẩn bị 8 nam thanh niên đến khiêng về. Trong khoảng thời gian chờ đến ngày tổ chức hôn lễ, thì việc hết sức quan trọng của họ nhà trai đó là chọn người làm ông mối. Người Thái rất coi trọng vai trò của ông mối, không chỉ có ý nghĩa trong lễ cưới mà còn mang dấu ấn trong cuộc sống hạnh phúc của đôi vợ chồng trẻ về sau. Vì vậy, đòi hỏi ông mối phải là người hiểu biết nhiều, có tài tổ chức và đối đáp giỏi, gia đình hạnh phúc vẹn toàn, sống mẫu mực và có uy tín trong cộng đồng.

Đến buổi đón dâu, đoàn nhà trai phải vượt qua nghi lễ “Tát nước” mà bên nhà gái đã chuẩn bị sẵn. Các thanh niên bên nhà gái đựng nước trong các xô, chậu... chờ khi nhà trai vừa bước vào cổng, nhà gái sẽ hất và khoát nước làm cho nhà trai bị ướt, nhất là tập trung vào ông mối và chú rể. Lúc này, bên nhà trai phải xin bên nhà gái không tát nước nữa, còn chú rể vào nhà thay quần áo, để tiếp tục tiến hành một nghi thức khác, đó là nghi thức Quỳ lạy. Ông mối dọn lễ gồm cơi trầu, rượu… giới thiệu các thành viên trong gia đình nhà trai.

Chú rể lúc này sẽ mời rượu và quỳ lạy ông bà, bố mẹ, tổ tiên bên nhà gái. Trong lúc chú rể quỳ lạy, nhà gái bất ngờ xông vào xô ngã chú rể cốt để chú rể không thể quỳ lạy thành công. Vì vậy, để thực hiện thủ tục quỳ lạy thành công thì bên nhà trai sẽ phải cẩn thận bố trí những thanh niên to khỏe đứng bảo vệ trước cửa không cho nhà gái xô chú rể. Đây chính là một trong những nét văn hóa cưới hỏi rất đặc sắc của dân tộc Thái không lẫn với các đồng bào dân tộc khác.

Sau khi hoàn tất nghi thức quỳ lạy, cho dù nhà có xa xôi tới đâu thì bên nhà trai cũng phải ở lại nhà gái tổ chức ăn uống qua đêm đến rạng sáng mới được phép rước dâu đi. Không biết từ bao giờ, người Thái miền Tây Nghệ An luôn giữ một phong tục rất độc đáo và riêng biệt, đó là trong ngày cưới, chú rể chỉ được rước cô dâu về nhà đúng vào thời khắc giao thoa giữa ngày cũ và ngày mới. Tục rước dâu đêm đã tồn tại từ hàng trăm năm nay và không hề mai một.

Thời gian đón cô dâu về nhà chồng cùng lễ vật đưa dâu là rất quan trọng. Cô dâu thường được đưa đi khoảng hơn 24 giờ. Lễ vật thường là một con lợn quay nặng 40kg, một chum rượu cần, một mâm cỗ gồm xôi, gà và 10 lít rượu nếp, trầu cau... Chú rể và cô dâu sẽ được ông bà mai mối (người Thái thường gọi là Pò, Mế làm) đưa đến trước bàn thờ nhà gái để tiến hành nghi lễ thông báo xin với ma nhà gái cho cô dâu về nhà chồng. Sau khi nghi lễ xin cô dâu về nhà chồng tiến hành xong, 2 bên gia đình cùng uống rượu cần thăm. Đồng thời, cả 2 bên gia đình sẽ cử ra 2 người hát nhuân, hát khắp hay nhất để hát đối đáp. Những bài hát nhuân thường là những bài về truyền thuyết về tình yêu đôi lứa của người Thái cổ...

Ngoài ra, việc hát đối đáp còn có thêm mục đích khác là kéo dài cuộc nói chuyện để chờ thời khắc rước dâu. Trước đây, để chọn thời khắc rước dâu, người Thái thường dựa vào tiếng gà gáy. Tuy nhiên, ngày nay khi cuộc sống hiện đại hơn, phong tục rước dâu phải được thực hiện vào đúng 12 giờ đêm. Người dân nơi đây có một quan niệm rất riêng rằng, ban ngày thường có nhiều linh hồn, quỷ dữ lang thang vất vưởng, nếu đám rước được tiến hành vào ban ngày thì những linh hồn này sẽ theo về phá hoại hạnh phúc của đôi tân lang, tân nương.

Thời khắc chuyển giao giữa ngày cũ và ngày mới chính là lúc trong lành, may mắn và có nhiều lộc trời nhất. Đón dâu vào giờ khắc này cuộc sống vợ chồng gặp nhiều may mắn, hạnh phúc.

Đặc biệt, khi chú rể dắt tay cô dâu ra khỏi nhà, bắt buộc phải bước qua một cây dâu đã được ông, bà mai mối chuẩn bị sẵn ngay dưới chân cầu thang. Cây dâu này được khắc 9 bậc tượng trưng cho 9 bậc thang tình yêu, trước khi bước qua 9 bậc cây dâu cô dâu và chú rể đều hát một đoạn nhuân: “Cài khố may món á lực hái ai, cài khố đai á lực nhính sáo”, có nghĩa là để xin với thần linh ban cho sinh được con trai và con gái.

Tiếp đến, chú rể đưa cô dâu về nhà mình. Khi bước lên cầu thang thì mẹ chồng chờ sẵn, cùng với một chậu đồng đựng nước suối trong suốt có ngâm một đồng xu bằng bạc. Mẹ chồng kỳ công rửa chân cho con dâu và trao tặng một vòng bạc cầu may. Sau đó, đại diện một người bên nhà trai đưa cô dâu vào buồng, làm lễ ăn cơm, uống rượu chung với chồng. Tân lang và tân nương sẽ trao vòng bạc cho nhau. Cũng từ đây, cô dâu chính thức trở thành người nhà chú rể.

Khi nhà trai đưa dâu về làng, trong trường hợp chưa đến giờ đẹp đã được ấn định từ trước để đưa dâu vào nhà thì đoàn rước dâu gửi cô dâu ở bên nhà hàng xóm. Chờ đến đúng giờ, mới đưa dâu vào nhà. Khi bước chân vào nhà, cô dâu và chú rể tiếp tục trải qua nghi lễ “Rửa chân”. Lúc này, ông mối hoặc mẹ chú rể ngồi sẵn ở dưới chân cầu thang, chuẩn bị 1 chiếc nồi bằng đồng có 2 quai đựng nước bên trong và 1 gáo dừa. Khi cô dâu, chú rể bước một chân đầu tiên lên bậc cầu thang thì ông mối lấy gáo dừa múc nước từ trong nồi đồng rửa chân cho cô dâu, chú rể. Lúc này, cô dâu, chú rể mới được bước chân vào nhà. Trước đó, nhà trai đã dọn 1 phòng riêng trong nhà cho họ nhà gái ở, mà độc đáo là căn phòng này chỉ cho phép phụ nữ bên họ nhà gái ở mà thôi.

Tiệc cưới được bắt đầu! Nhà trai đã chuẩn bị các mâm cơm (gọi là “Pàn pở”) để tiếp đón nhà gái và khách khứa. Trong đám cưới của dân tộc Thái, bên nhà trai có nhiệm vụ thực hiện tất cả các món ăn mà nhà gái yêu cầu. Thiếu món gì thì đích thân chú rể phải tự phục vụ theo đúng yêu cầu của nhà gái. Lúc này, chú rể đưa cô dâu đi chúc rượu từng người trong gia đình hai bên và các quan khách. Trong đám cưới, các đôi nam nữ hai bên hát khắp, hát đối đáp giao duyên. Lời ca, tiếng hát, tiếng nhạc hòa quyện vào nhau. Và từ đây, đã có biết bao nhiêu đôi trai gái phải lòng nhau và đi đến hạnh phúc.

Sau khi đám cưới kết thúc, phụ nữ cả hai bên nội, ngoại có nhiệm vụ vào phòng tân hôn để mắc màn, trải chiếu, nệm cho cô dâu, chú rể. Một phụ nữ khéo léo được chọn ngồi trên giường tân hôn, ôm một chiếc gối làm động tác ru con, với ý nghĩa mong hai vợ chồng sau này con đàn cháu đống, mãi mãi được hạnh phúc… Mọi việc đã xong xuôi, họ nhà gái trở về, chỉ có cô dâu và một phụ dâu qua đêm ở nhà trai. Một đặc trưng riêng trong hôn nhân của người Thái là ngay trong đêm đầu tiên ở nhà trai thì cô dâu chưa được ngủ cùng chú rể, mà phụ dâu ngủ cùng cô dâu. Phụ dâu sẽ ở lại nhà trai chờ cho đến khi chú rể cùng cô dâu lại mặt nhà ngoại thì phụ dâu mới được đi theo về. Trong ngày lại mặt nhà ngoại, cả chú rể và cô dâu phải trở về nhà trai trong ngày, không được ở lại qua đêm bên nhà ngoại.

Với những nét đặc trưng về văn hóa, lễ cưới truyền thống của đồng bào dân tộc Thái ở miền núi Phía Tây của Nghệ An đã góp phần làm đặc sắc văn hóa vùng cao và phong phú kho tàng văn hóa của dân tộc Việt.

3. Một số biến đổi trong phong tục cưới hỏi và đề xuất giải pháp bảo tồn những nét đẹp trong phong tục cưới hỏi của đồng bào Thái ở miền Tây xứ Nghệ

Những gì được coi là văn hoá truyền thống đều có sự biến đổi theo thời gian và không gian. Qua sự biến đổi ấy nó đã tự gạn đục khơi trong để có giá trị văn hoá đích thực phù hợp với thời đại mà con người đang sống, làm ra nó, hưởng thụ nó và tôn vinh để nó trường tồn, bất diệt. Tục cưới hỏi của người Thái cũng vậy, không có một hương ước hay quy ước hay một văn bản nào quy định hay thay đổi một cách nhanh chóng được tục lệ cưới hỏi của họ vì nó đã in sâu thành nền nếp bao đời. Chỉ qua một quá trình đi lên của xã hội, những tục lệ nếu không còn phù hợp đời sống văn hoá tinh thần mới sẽ bị biến đổi. Tục cưới hỏi, lấy vợ của người Thái ở miền núi phía Tây Nghệ An là một minh chứng.

Khác với lễ cưới truyền thống, lễ cưới của người Thái ngày nay đã có nhiều thay đổi, ảnh hưởng và có sự giao thoa trong văn hóa cưới hỏi. Nghi thức cưới truyền thống đã không còn tổ chức cầu kỳ, tốn kém. Lễ hỏi và lễ cưới thường được tổ chức gộp một lần…

Trước đây, người Thái còn có tục trộm vợ. Tục lệ này cho phép đôi trai gái nào yêu nhau mà cha mẹ bên gái không đồng ý cuộc hôn nhân này, thì chàng trai có thể tổ chức “trộm” vợ về nhà và bỏ sẵn lễ vật gồm rượu, cơi trầu… trên đầu giường nơi cô gái nằm, để khi bố mẹ nhà gái thấy sẽ biết con gái mình đã có chàng trai đến bắt đi. Ngày hôm sau, bố mẹ nhà trai sẽ chủ động sang nhà gái báo cáo về việc con trai mình đã bắt con gái của họ và xin phép cho đôi trẻ được chọn ngày lành, tháng tốt tổ chức lễ cưới.

Tuy nhiên, tục lệ trộm vợ cho đến ngày nay không còn nữa. Lễ cưới hỏi của người Thái hiện nay tuy đã giảm thiểu những thủ tục rườm rà, phức tạp như không còn tục thăm tháng, tát nước bẩn, tục rửa chân… cho phù hợp với thời đại mới, nhưng vẫn giữ gìn bản sắc văn hóa cưới hỏi của đồng bào Thái. Chính những nghi lễ mang đậm dấu ấn văn hóa và tín ngưỡng trong việc cưới hỏi của người Thái đã có ảnh hưởng sâu sắc trong đời sống vợ chồng. Họ sống rất chung thủy với nền tảng gia đình bền chặt. Đó cũng là những nét đẹp trong đời sống văn hóa - xã hội hôm nay mà chúng ta cần giữ gìn, phát huy và trân trọng.

Qua việc tìm hiểu phong tục cưới hỏi của đồng bào Thái ở miền Tây xứ Nghệ, tác giả đề xuất một số biện pháp nhằm bảo tồn các phong tục đẹp trên đây. Cụ thể:

Một là: Tiếp tục tăng cường nâng cao nhận thức và trách nhiệm của các cấp uỷ Đảng, chính quyền và các cơ quan liên quan trong việc thực hiện nhiệm vụ bảo tồn và phát huy các giá trị văn hoá đặc sắc của địa phương.
Hai là: Áp dụng các biện pháp cần thiết của chính quyền các cấp để bảo vệ các giá trị văn hóa truyền thống đặc sắc, khuyến khích việc duy trì những phong tục tập quán lành mạnh của trong cưới hỏi; duy trì và phát huy các giá trị văn hóa ẩm thực, giá trị về trang phục truyền thống dân tộc và các tri thức dân gian khác.

Ba là: Khơi dậy sức sáng tạo chủ động của nhân dân trong các hình thức sinh hoạt cộng đồng nhằm đáp ứng nhu cầu hoạt động văn hóa trong thời kỳ mới. Giữ gìn truyền thống văn hoá trong gia đình, trong làng, bản, tạo điều kiện cho quần chúng tiếp nhận thông tin về mọi mặt đời sống kinh tế xã hội và thực hiện quyền làm chủ của mình.
Bốn là: Chú trọng xây dựng môi trường văn hóa. Tuyên truyền cho đồng bào các dân tộc biết tự hào và trân trọng những giá trị tinh thần, đạo đức, phong tục tốt đẹp của mình, phát huy các giá trị văn hóa tích cực truyền thống trong cuộc sống mới. Xây dựng và thực hiện quy ước văn hóa trên cơ sở kết hợp những yếu tố truyền thống tốt đẹp. Tổ chức hình thức hoạt động văn hóa lành mạnh để thu hút nhân dân tham gia.
Năm là: Tiếp tục quan tâm chỉ đạo thực hiện có hiệu quả Chương trình bảo tồn và phát huy các giá trị văn hoá truyền thống đặc sắc; Có chính sách hỗ trợ công tác bảo tồn, phát triển văn hoá, công tác bồi dưỡng, đào tạo cán bộ văn hoá ; lồng ghép các chương trình đầu tư vùng sâu, vùng xa đặc biệt khó khăn vào việc hỗ trợ cơ sở vật chất, trang thiết bị văn hoá để nâng cao mức hưởng thụ về văn hoá cho đồng bào các dân tộc./.

 

Bài viết mới

Tin tức nổi bật