Văn hoá cộng đồng
Văn hoá tộc người tương ứng với cộng đồng tộc người, hình thành sớm nhất từ hậu kỳ đá mới và tồn tại bền vững tới tận ngày nay. Việt Nam từ thời lập quốc Văn Lang – Âu Lạc (cách này nay khoảng 2.500 năm) đã là quốc gia đa tộc người. Các dấu hiệu văn hoá hiện tại còn nhận biết được qua các di vật khảo cổ cho thấy, có thể cư dân của các quốc gia cổ đại ấy nói các ngôn ngữ khác nhau thuộc các nhóm Môn – Khơme cổ, Việt – Mường cổ và Tày Thái cổ.
Từ đó trở đi, cùng với việc mở rộng và củng cố cương vực của các triểu đại phong kiến, thì tính đa tộc người của quốc gia Việt Nam càng trở nên rõ rệt hơn. Cho tới nay, theo công bố chính thức của Nhà nước vào năm 1979 thì nước ta có 54 tộc người, thuộc nhiều nhóm ngôn ngữ tộc người khác nhau: Việt – Mường; Môn – Khơme, Tày – Thái, Nam Đảo, Mông – Dao, Tạng – Miến, Hán, nhóm Kađai với những sắc thái văn hoá rất phong phú. Sắc thái văn hoá đa dạng đó thể hiện trên ba cấp độ: sắc thái đa dạng của nhóm ngôn ngữ - tộc người, của tộc người và của nhóm địa phương tộc người.
Từ góc độ tộc người và văn hoá thì Việt Nam giống như một Đông Nam Á thu nhỏ, bởi vì trên lãnh thổ Việt Nam hiện sinh sống đầy đủ các đại biểu của các nhóm ngôn ngữ - tộc người (ngữ hệ và ngữ tộc) lớn của Đông Nam Á, như Nam Á (trong đó có Môn – Khơme, Việt – Mường, Tày – Thái, Mông – Dao), Nam Đảo, Hán - Tạng (Tạng – Miến, Hán).
Việc phân chia (phân loại) các tộc người ở Đông Nam Á nêu trên cơ bản dựa trên các cứ liệu về mối quan hệ thân thuộc về ngôn ngữ, tuy nhiên, từ các mối quan hệ thân thuộc ấy, sự tương đồng về những đặc trưng văn hoá cũng thể hiện khá rõ. Chúng ta hãy tạm nêu các đặc trưng cơ bản về văn hoá của nhóm ngôn ngữ - tộc người của Việt Nam.
Nhóm Việt – Mường
Bao gồm người Việt, Mường, Thổ, Chứt, có số dân đông nhất ở Việt Nam (trên 85% dân số của cả nước). Các tộc người này có nguồn gốc chung từ cộng đồng người tiền Việt – Mường (Việt cổ) thời Văn hoá Đông Sơn, cách ngày nay khoảng gần 3000 năm. Trong suốt thời Bắc thuộc (thế kỷ I – X), đã diễn ra quá trình phân hoá giữa người Việt và Mường và sau đó là các cộng đồng nhỏ hơn, như Chứt, như Thổ, tách ra khỏi người Việt khoảng thế kỷ thứ XV.
Cư dân nhóm Việt – Mường chủ yếu canh tác nông nghiệp trồng lúa nước ở đồng bằng châu thổ ở Bắc Bộ và Nam Bộ, và rẻo đồng bằng hẹp ven biển miền Trung. Sự tương đồng văn hoá giữa các tộc người này thể hiện chủ yếu về trình độ phát triển, trong đó tộc người Việt phát triển trình độ cao, còn các nhóm Thổ, Chứt thì sống biệt lập và có phần thoái hoá.
Nhóm Môn – Khơ me
Bao gồm 21 tộc người khác nhau: Khơme, Bana, Xơđăng, Cơ ho, Hrê, Co, Mnông, Mạ, Xtiêng, Bru- Vân Kiều, Tà Ôi, Cơtu, Giẻ - Triêng, Brâu, Rơmăm, Chơro, Khơ mú, Kháng, Xinhmun, Mảng, Ơ đu. Đó là các tộc người bản địa ở Việt Nam và các nước Đông Dương. Hiện nay, họ sinh sống ở các miền rẻo giữa vùng núi và cao nguyên, làm nương rẫy canh tác lúa khô, cơ cấu xã hội truyền thống là làng (buôn, bon, plây) mang tính cộng đồng cao, tín ngưỡng đa thần, văn hoá giữ lại nhiều tàn dư của xã hội nguyên thuỷ, ít chịu ảnh hưởng văn hoá Hán và Ấn Độ (trừ dân tộc Khơme).
Nhóm Tày – Thái
Bao gồm tám tộc người: Thái, Tày, Nùng, Lự, Lào, Giáy, Bố Y, Sán Chay, sinh sống chủ yếu ở các thung lũng miền núi phía Bắc Việt Nam, tạo nên một dạng sinh thái – tộc người thung lũng và cùng với nó là dạng văn hoá thung lũng. Họ canh tác lúa nước, xã hội tổ chức thành bản (làng) và mường, một hình thức tổ chức tiền nhà nước. Mối quan hệ và sự tương đồng về ngôn ngữ và văn hoá giữa các tộc người này khá gần gũi và chặt chẽ.
Nhóm Nam Đảo
Bao gồm 5 tộc người: Chăm, Êđê, Giarai, Raglai và Chu ru, sinh sống chủ yếu ở Tây Nguyên và duyên hải Nam Trung Bộ. Tổ tiên của các tộc người này có lẽ là chủ nhân của văn hoá Sa Huỳnh thời kỳ kim khí. Sau đó có sự phân hoá giữa người Chăm cư trú ven biển tiếp thu văn hoá Ấn Độ và hình thành nhà nước Chămpa đầu Công nguyên với các tộc người khác vượt lên sinh sống ở Tây Nguyên, ít chịu ảnh hưởng của văn hoá Ấn Độ, là tổ tiên các tộc Êđê, Giarai, Raglai và Chu ru ngày nay. Văn hoá của các tộc người này mang sắc thái văn hoá biển, thể hiện qua các huyền thoại, sử thi, truyền thuyết, kiến trúc nhà ở, phong tục, nghi lễ...
Nhóm Mông Dao
Bao gồm 3 tộc: Mông (Mèo), Dao và Pà Thẻn, sinh sống chủ yếu ở vùng rẻo núi cao miền núi phía Bắc Việt Nam, tạo nên dạng sinh thái tộc người rẻo cao. Họ canh tác nương rẫy trồng ngô và lúa khô. Các tộc người này từ Trung Quốc di cư vào Việt Nam từ các thời kỳ lịch sử khác nhau, sớm nhất từ thế kỷ XIII (người Dao) và thế kỷ XVIII- XIX (Mông). Văn hoá các tộc người này mang sắc thái Bắc Á, thể hiện qua trang phục, truyền thuyết, nghi lễ, đặc biệt là Shaman giáo.
Nhóm Tạng – Miến
Gồm các tộc người: Hà Nhì, Lô Lô, La Hủ, Cống, Phù Lá, Si La, sinh sống chủ yếu ở vùng núi cao giáp biên giới Việt Nam – Trung Quốc, tương tự điều kiện sinh sống của nhóm Mông Dao. Họ canh tác nương rẫy, trồng lúa và ngô. Các tộc người này về lịch sử và văn hoá gắn bó mật thiết với các tộc người ở vùng Tây Nam Trung Quốc, mà tổ tiên họ đã từng sáng tạo nên văn hoá Điền thời kỳ sơ kỳ kim khí và là chủ nhân nhà nước Nam Chiếu thời đầu thiên niên kỷ II SCN. Các tộc người này di cư vào Việt Nam vào các thời kỳ lịch sử khác nhau, mang theo văn hoá vùng Tây Tạng và xa hơn là Trung Á, làm phong phú văn hoá Việt Nam.
Nhóm ngôn ngữ Hán
Gồm các tộc người Hoa, Ngái và Sán Dìu, trong đó, người Hoa thường sinh sống ở các đô thị, còn người Ngái, Sán Dìu thì tụ cư xen cài với các tộc người khác ở miền núi phía Bắc Việt Nam. Các tộc người này đều từ Trung Quốc di cư vào Việt Nam, trong đó, người Hoa là tộc người góp phần truyền bá văn hoá Hán vào Việt Nam.
Văn hoá quốc gia Việt Nam
Văn hoá quốc gia Việt Nam tương ứng với cộng đồng quốc dân Việt Nam. Quốc gia là một cơ cấu, một thực thể chính trị xã hội, bao trùm một không gian lãnh thổ, một tập đoàn cư dân nhất định, ở đó luôn thiết lập một cơ cấu quyền lực, một giai cấp nào đó lên toàn xã hội.
Về bản chất, văn hoá Việt Nam thuộc loại liên văn hoá, nó là sản phẩm của quá trình giao lưu ảnh hưởng qua lại lâu dài giữa các tộc người, các nhóm cư dân trong một quốc gia, giữa Việt Nam và các nước láng giềng trong khu vực và ngoài khu vực Đông Nam Á.
Chúng ta có thể nhận diện nền văn hoá Việt Nam thông qua các thành tố cơ bàn:
- Trước hết, nhân tố chính tạo nên đường nét của mỗi nền văn hoá là hệ tư tưởng, nó chi phối và tác động tới các thành tố, diện mạo và sắc thái văn hoá. Chúng ta đã từng nói đến ý thức hệ Tam giáo đã tác động và chi phối như thế nào đối với văn hoá Việt Nam thời phong kiến tự chủ. Còn với Việt Nam thời hiện đại, đó là hệ tư tưởng Mác – Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh.
- Đạo đức cũng là một trong những thành tố cơ bản của văn hoá, một mặt nó chịu sự quy định chặt chẽ của hệ ý thức, mặt khác nó kế thừa những giá trị đạo đức truyền thống. “Ái quốc, trung quân” là chuẩn mực đạo đức thời kỳ phong kiến, còn ngày nay, trong điều kiện xã hội và tư tưởng mới, Chủ tịch Hồ Chí Minh là người đi đầu trong việc nêu cao các chuẩn mực đạo đức mới: “Trung với nước, hiếu với dân”, “mình vì mọi người, mọi người vì mình”. Với mỗi lứa tuổi, giới tính và nghề nghiệp, Hồ Chí Minh đều có những chỉ dẫn về đạo đức: Năm điều Bác Hồ dạy thiếu nhi; với phụ nữ là: anh hùng, bất khuất, trung hậu, đảm đang; với quân đội: trung với Đảng, hiếu với dân, nhiệm vụ nào cũng hoàn thành, khó khăn nào cũng vượt qua, kẻ thù nào cũng đánh thắng; với cán bộ nhà nước: cần, kiệm, liêm chính, chí công vô tư... Các chuẩn mực đạo đức ấy được đúc rút từ các giá trị truyền thống, được nâng lên dưới tư tưởng mới của thời đại và khi thể hiện cũng hết sức đa dạng, mang sắc thái địa phương và tộc người.
Những nét chung của quan niệm đạo đức chi phối những chuẩn mực giao tiếp xã hội, chuẩn mực cái đẹp. Bởi vì, cái đẹp, tiêu chuẩn đánh giá cái đẹp vừa là sự kết tinh những giá trị truyền thống nhưng đồng thời nó cũng mang tính thời đại, đáp ứng nhu cầu thời đại.
- Lối sống và nếp sống là trung tâm, là biểu hiện quan trọng nhất của mỗi nền văn hoá. Nếp sống thể hiện từ cách thức làm ăn, sinh hoạt vật chất (ăn, mặc, ở, đi lại...), sinh hoạt tinh thần (học tập, vui chơi, giải trí, tín ngưỡng, tôn giáo, văn học nghệ thuật...), giao tiếp xã hội (gia đình, bạn bè, đồng chí...). Tuy nhiên, trong cùng một quốc gia, một thể chế xã hội, chịu tác động của cơ sở kinh tế, xã hội chung, cư dân trong nước ấy dù thuộc các tộc khác nhau, không thể không hình thành một lối sống mang những đặc trưng chung nhất. Phải chăng đó là lối sống công nghiệp, lối sống hiện đại mang bản sắc Việt Nam. Tinh thần đoàn kết, tương trợ, bình đẳng, xích lại gần nhau giữa các dân tộc, tinh thần “nhiễu điều phủ lấy giá gương, người trong một nước phải thương nhau cùng”, “lá lành đùm lá rách”, “chị ngã em nâng”, “mình vì mọi người, mọi người vì mình”, tinh thần quốc tế vô tư trong sáng... đã và đang là tinh thần chỉ đạo lối sống của con người Việt Nam chúng ta, không kể đó là thành thị hay nông thôn, miền Nam hay miền Bắc, miền núi hay vùng xuôi, dân tộc đông người hay ít người. Lối sống này sẽ bao trùm và định hướng cho các nếp sống thể hiện muôn hình muôn vẻ ở mỗi tộc người, địa phương khác nhau.
- Khoa học và giáo dục cũng là một thành tố quan trọng của văn hoá Việt Nam. Ở mỗi thời đại, tuỳ theo hệ tư tưởng, giai cấp thống trị sử dụng hệ thống khoa học và giáo dục để thiết lập và khẳng định hệ tư tưởng, dùng nó như một công cụ để thực hiện những mục tiêu chính trị, kinh tế, xã hội và văn hoá của mình. Khác với các lĩnh vực khác của đời sống xã hội, khoa học, giáo dục vừa kế thừa truyền thống lâu đời, vừa vươn lên trình độ hiện đại và phổ quát.
- Cùng với khoa học và giáo dục, ngôn ngữ và chữ viết cũng là thành tố chung của nền văn hoá Việt Nam, là phương tiện thúc đẩy nhanh quá trình giao lưu văn hoá và xích lại gần nhau giữa các dân tộc. Có lẽ chưa bao giờ trong lịch sử nước ta, tiếng và chữ phổ thông lại được phổ cập và đóng vai trò quan trọng là phương tiện giao tiếp rộng rãi văn hoá giữa các dân tộc như hiện nay. Có lẽ nếu không có chữ viết và tiếng phổ thông thì sẽ không có nền văn hoá Việt Nam hiện đại. Ngày nay, ở các vùng dân tộc thiểu số, ngoài tiếng mẹ đẻ đã và đang được tạo điều kiện để phát triển, thì một số dân tộc đã có chữ viết (Chăm, Khơme, Thái,...) hay chưa có chữ viết đều được quan tâm phát triển lĩnh vực văn hoá trọng yếu này. Thực trạng sử dụng song ngữ, đa ngữ (tiếng mẹ đẻ, tiếng phổ thông, tiếng nói giao tiếp trong khu vực) ngày một mở rộng và hợp với quy luật phát triển của quốc gia đa dân tộc hiện nay.
Văn hoá làng
Văn hoá làng tương ứng với cộng đồng làng, một cơ cấu dân cư, kinh tế, xã hội và văn hoá cơ bản của xã hội của nước ta từ hàng ngàn năm nay. Ban đầu, làng (bản, buôn, plây, bon...) là một nơi cư trú của một số gia đình, gia tộc (lúc đầu phần lớn là các gia đình cùng huyết thống, sau trở thành quan hệ láng giềng), dần dần làng được củng cố bằng các quan hệ sở hữu và lợi ích kinh tế, thành một thiết chế xã hội mang tính tự quản, thể hiện qua hương ước, luật tục, nằm trong khuôn khổ của các đơn vị hành chính thời phong kiến và xã hội hiện nay. Đặc biệt, trên cơ sở điều kiện môi trường cư trú, hoạt động sản xuất và thiết chế xã hội, làng dần hình thành những đặc trưng văn hoá mang tính đặc thù, thể hiện qua đời sống tâm linh – tín ngưỡng, qua các phong tục tập quán, sinh hoạt văn hoá nghệ thuật dân gian như hội làng. Từ hàng nghìn năm nay, văn hoá làng trở thành cái nôi sản sinh, nuôi dưỡng, kế thừa và bảo tồn, phát huy nền văn hoá dân tộc, trở thành vũ khí sắc bén, một mặt, bản địa hoá các ảnh hưởng văn hoá ngoại lai, làm giàu văn hoá dân tộc, chống lại mưu đồ đồng hoá của các thế lực ngoại xâm.
Văn hoá gia đình, gia tộc và dòng họ
Gia đình, gia tộc, dòng họ là các hình thức cộng đồng huyết thống, một kiểu tập hợp, liên kết sớm nhất của con người. Tương ứng với cộng đồng này từ lâu đã hình thành các dạng thức văn hoá đặc thù, mà người xưa thường gọi là gia phong. Gia phong là “nếp nhà”, như vậy, tuỳ theo, mỗi địa phương, mỗi tộc người, thậm chí truyền thống mỗi gia đình có những sắc thái riêng về gia phong, thể hiện qua cách thức tổ chức gia đình (phụ hệ hay mẫu hệ), nghề nghiệp, học vấn, quan hệ và chuẩn mực ứng xử, cách thức giáo dục...
Văn hoá tôn giáo tín ngưỡng
Tương ứng với các cộng đồng, tôn giáo, tín ngưỡng Phật giáo, Kitô giáo, Hồi giáo, Nho giáo, Đạo Mẫu... đều có các dạng thức văn hoá tương ứng: văn hoá Phật giáo, văn hoá Kitô giáo, Văn hoá Nho giáo, văn hoá Hồi giáo, văn hoá Đạo Mẫu...
Bản thân các tôn giáo tín ngưỡng đã là một hình thức văn hoá đặc thù, đấy là chưa kể, trong quá trình hình thành và phát triển, mỗi tôn giáo tín ngưỡng bao giờ cũng sản sinh, tích hợp trong nó những hiện tượng, những sinh hoạt văn hoá nghệ thuật. Văn hoá tôn giáo tín ngưỡng thường biểu hiện qua hàng loạt yếu tố văn hoá vật thể, như các công trình kiến trúc nhà thờ, các dạng đình, đền, am, miếu; các hình thức trang trí kiến trúc, tranh thờ, tượng thờ, các đồ thờ phù hợp, các loại trang phục, lễ phục...phù hợp với các hình thức nghi lễ tôn giáo, tín ngưỡng... Đặc biệt là các dạng văn hoá phi vật thể, như các giáo lý, kinh sách
Văn hoá nghề nghiệp
Nước ta là nước nông nghiệp, nông dân chiếm hơn 80% thành phần cư dân, tuy nhiên, trong môi trường nông thôn và đô thị, thành phần nông dân, nhìn từ góc độ nghề nghiệp cũng không thuần nhất. Bên cạnh những người chuyên nông nghiệp vẫn còn có những người làm các nghề khác, mỗi nghề tạo nên một cộng đồng riêng, như thủ công nghiệp, đánh cá, buôn bán hay kết hợp nông nghiệp với các nghề phi nông nghiệp.
Trong các làng xã người Việt cũng như các dân tộc thiểu số từ lâu đã tồn tại các nghề thủ công, cao hơn là các làng nghề và ở đô thị có các phố nghề. Như đã nói ở trên, những người làm nghề thủ công trong các làng nghề ít nhiều vẫn gắn với nông nghiệp, tuy nhiên các làng nghề thủ công vẫn có sắc thái văn hoá riêng so với các làng nông nghiệp thuần tuý, thể hiện qua các hoạt động nghề hướng về sản xuất hàng hoá, cách thức tổ chức và quan hệ giữa những người cùng nghề, các hoạt động thờ cúng, nghi lễ, phong tục liên quan đến tín ngưỡng tổ nghề, thậm chí tâm lý tính cách những người hoạt động nghề thủ công gắn với sản xuất hàng hoá, kinh tế thị trường cũng có những nét năng động, cởi mở, nhanh nhạy hơn so với người làm nghề nông thuần tuý...
Văn hoá cá nhân
Văn hoá cá nhân như một dạng thức của văn hoá, theo đó, mỗi cá nhân, tuỳ thuộc vào môi trường gia đình, cộng đồng cũng như thể chất, trình độ giáo dục mà cá nhân ấy thể hiện khả năng tiếp nhận văn hoá của cộng đồng mà họ là thành viên, thông qua kênh trao truyền văn hoá của thế hệ trước, trong cái khung truyền thống gia đình, dòng họ, làng xã, nhà trường,... cũng như sự thể hiện nền văn hoá đó thông qua các hoạt động, hành vi, ứng xử, bản sắc, tâm tính... của mỗi con người, khiến họ có nét đặc thù riêng biệt với người khác.
Văn hoá vùng lãnh thổ
Văn hoá vùng thuộc dạng thức văn hoá lãnh thổ, mang tính chất liên văn hoá. Văn hoá vùng (văn hoá văn hoá địa phương) là một thực thể văn hoá hình thành và tồn tại trong một không gian lãnh thổ nhất định, thể hiện qua một tập hợp các đặc trưng văn hoá về cách thức hoạt động sản xuất, về ăn, mặc, ở và đi lại, vận chuyển; về cách tổ chức xã hội cổ truyền và giao tiếp cộng đồng; về tín ngưỡng, phong tục, lễ hội; về các sinh hoạt văn hoá nghệ thuật; về vui chơi giải trí; về các sắc thái tâm lý của cư dân,... từ đó, có thể phân biệt với các đặc trưng văn hoá của các vùng khác. Những đặc trưng văn hoá đó hình thành và hình thành trong quá trình lịch sử lâu dài, do cư dân các dân tộc trong vùng thích ứng với cùng một điều kiện môi trường, có sự tương đồng về trình độ phát triển xã hội, đặc biệt, giữa họ có mối quan hệ giao lưu văn hoá mật thiết.
Văn hoá Việt Nam có thể phân vùng thành 7 vùng văn hoá lớn, 23 tiểu vùng nhỏ.
- Vùng văn hoá đồng bằng Bắc Bộ có thể phân thành 5 tiểu vùng: Tiểu vùng Kinh Bắc (Bắc Ninh, Bắc Giang); tiểu vùng Sơn Nam (Hà Tây, Hà Nam, Nam Định, Thái Bình, Hưng Yên); tiểu vùng xứ Đoài (Phú Thọ, Sơn Tây, Vĩnh Phúc); tiểu vùng xứ Đông (Hải Dương, Hải Phòng); tiểu vùng Thăng Long – Hà Nội.
- Vùng văn hoá Việt Bắc: tiểu vùng Cao – Bắc – Lạng (Lạng Sơn, Cao Bằng, Bắc Kạn, Thái Nguyên) và tiểu vùng Đông Bắc (Quảng Ninh).
- Vùng văn hoá Tây Bắc và miền núi Thanh – Nghệ (tiểu vùng Tây Bắc (Lai Châu, Sơn La); Tiểu vùng miền núi Thanh – Nghệ (Thanh Hoá, Nghệ An); tiểu vùng Mường (Hoà Bình).
- Vùng văn hoá Bắc Trung Bộ (tiểu vùng xứ Thanh (Thanh Hoá), tiểu vùng xứ Nghệ (Nghệ An, Hà Tĩnh), tiểu vùng xứ Huế (Quảng Bình, Quảng Trị, Thừa Thiên).
- Vùng văn hoá Nam Trung Bộ (tiểu vùng xứ Quảng (Quảng Nam, Quảng Ngãi, Bình Định); tiểu vùng Phú Yên, Khánh Hoà; tiểu vùng Ninh Thuận, Bình Thuận.
- Vùng văn hoá Trường Sơn, Tây Nguyên (tiểu vùng Nam Trường Sơn (vùng núi Thừa Thiên, Quảng Nam); tiểu vùng Bắc Tây Nguyên (Kon Tum, Gia Lai); tiểu vùng Trung Tây Nguyên (Đắc Lắc); tiểu vùng Nam Tây Nguyên (Lâm Đồng, Bình Phước).
- Vùng văn hoá Nam Bộ: tiểu vùng Đông Nam Bộ (Đồng Nai, Tây Ninh, Bình Dương, Long An, Bà Rịa – Vũng Tàu, Biên Hoà); tiểu vùng Tây Nam Bộ (Đồng Tháp, Kiên Giang, An Giang, Mỹ Tho, Cà Mau, Trà Vinh, Bến Tre, Bạc Liêu); tiểu vùng Sài Gòn, Gia Định.
Văn hoá sinh thái: là các dạng thức văn hoá hình thành và phát triển tương thích với những môi trường sinh thái nhất định, như sinh thái biển đảo, sinh thái đồng bằng châu thổ, sinh thái thung lũng, sinh thái rẻo giữa, sinh thái rẻo cao, sinh thái cao nguyên... Ở nước ta cũng như nhiều nước trên thế giới, từ xa xưa các tộc người thường phân bố tương ứng với các hoàn cảnh môi trường và sinh thái nhất định, do vậy đã hình thành nên dạng thức văn hoá sinh thái – tộc người. Thí dụ, các tộc người nói ngôn ngữ Tày – Thái thường sinh sống tập trung ở các thung lũng, do vậy văn hoá của các tộc người này mang đậm tính chất của văn hoá thung lũng. Các tộc người nói ngôn ngữ Môn – Khơ me và Nam Đảo thường sinh tụ ở vùng rẻo giữa và cao nguyên với đặc trưng là canh tác nương rẫy lúa khô và lối sống du canh du cư. Còn các tộc người Mong, Dao Đỏ thì lại chọn môi trường rẻo cao, khí hậu mang tính cận nhiệt đới.
Sinh sống lâu đời trong môi trường sinh thái quen thuộc như vậy nên mỗi tộc người đã hình thành những kiểu thích ứng với môi trường nhất định, tạo nên những truyền thống sinh hoạt kinh tế, xã hội, văn hoá riêng. Do vậy, trong việc phát triển kinh tế xã hội của các dân tộc vùng núi, phải coi những kiểu thích ứng môi trường, những truyền thống trên như một trong những thế mạnh cần khai thác và phát huy.
Thí dụ, vùng thung lũng thich hợp với canh tác lúa nước và đánh bắt, chăn nuôi thuỷ sản, khai thác những tài nguyên về nguồn nước, phát triển các nghề thủ công như trồng bông, dệt vải, thổ cẩm, làm đồ gốm... Xã hội gắn kết trên cơ sở bản mường truyền thống, xã hội cổ truyền phân hoá thành các tầng lớp và đẳng cấp...
Người Kinh (Việt) với tư cách là tộc người chủ thể quốc gia, có số dân đông và trình độ phát triển kinh tế, xã hội và văn hoá cao, sinh sống chủ yếu ở đồng bằng châu thổ, ven biển cận duyên, biển đảo và các đô thị lớn, từ đây cũng hình thành các dạng văn hoá sinh thái tương ứng, khiến cho văn hoá của người Kinh vừa mang tính thống nhất cao, lại vừa thể hiện các sắc thái đa dạng.
Ngày nay, trong quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá, môi trường tự nhiên nói chung, các dạng môi trường sinh thái nói riêng đang đứng trước nguy cơ bị mất dần tính đa dạng, do vậy, các truyền thống văn hoá sinh thái cũng ngày một phai nhạt. Từ đây đặt ra thách thức rất lớn về việc bảo tồn tính đa dạng sinh học và đa dnagj văn hoá cần phải có sự liên hệ mật thiết và hữu cơ, cái nọ làm tiền đề cho sự tồn tại và phát triển của cái kia.