Ngày 20/6/2017, Trường Cao đẳng Văn hóa Nghệ thuật Nghệ An đã tổ chức buổi thuyết trình về lịch sử âm nhạc phương Tây do giáo sư người Mỹ Brian Kilp đến từ Học viện âm nhạc Jacobs thuộc Đại học Indiana, Hoa Kỳ thuyết giảng. Tham dự ngày thuyết giảng có các phiên dịch viên của nhà trường, phiên dịch của giáo sư cùng đông đảo cán bộ, giảng viên, sinh viên khoa Âm nhạc.
Trong chương trình đào tạo giáo viên ngành Âm nhạc, bộ môn Lịch sử Âm nhạc phương Tây là một môn học nhằm trang bị cho người học những kiến thức cơ bản về các thời kỳ âm nhạc, trường phái, trào lưu âm nhạc, đại diện tiêu biểu trong sáng tạo âm nhạc phương Tây. Kiến thức Lịch sử Âm nhạc phương Tây là những kiến thức lịch sử mang tính quá khứ, là những sự kiện đã xảy ra, diễn ra một lần duy nhất, không lặp lại, không chỉ quan sát trực tiếp mà chỉ nhận thức chúng một cách gián tiếp thông qua nguồn tài liệu. Vì vậy khi trình bày các sự kiện, hiện tượng lịch sử âm nhạc Phương Tây, Giáo sư Brian Kilp đã trình bày rất cụ thể, sinh động, có hình ảnh, gây sự hấp dẫn và hứng thú với người nghe. Đặc biệt, giáo sư đã sử dụng các mẩu truyện, bài thơ, bức tranh nổi tiếng của giai đoạn lịch sử và nhân vật để liên kết, làm rõ những kiến thức âm nhạc trong từng giai đoạn mà giáo sư giảng đã không chỉ góp phần minh họa sinh động chính xác mà còn giúp người nghe có cơ sở hình thành khái niệm. Bài giảng của giáo sư bắt đầu bằng bản đồ tư duy về lịch sử âm nhạc Phương Tây. Sau đó, ông bắt đầu vào giảng những giai đoạn đầu tiên.
Âm nhạc đã có từ rất lâu (có lẽ từ khi loài người có mặt trên trái đất), sau đó nó dần dần hình thành và phát triển. Trong thời kì Hy Lạp - La Mã, âm nhạc đã đạt được những thành tựu rất quan trọng. Và sau đó có một người đàn ông đã hoàn thiện kỹ thuật ghi nhạc bằng 7 nốt với 5 dòng kẻ. Từ khi có kỹ thuật này, âm nhạc có điều kiện thuận lợi hơn để phát triển. Song, sau đó, đến thời kỳ phong kiến, âm nhạc bị chèn ép và đã suy thoái rất nhiều. Âm nhạc thời kỳ trung cổ ở châu Âu ở Phương Tây chủ yếu là phục vụ nhà thờ và vua chúa, quý tộc. Dòng nhạc dân gian không được coi trọng. Mốc quan trọng nhất để đánh dấu sự ra đời của âm nhạc Classic có lẽ là vào thế kỷ 14 - 16: đây là lúc bắt đầu thời kỳ Phục Hưng trong nghệ thuật (Phục Hưng tức là khôi phục lại sự hưng thịnh của nghệ thuật Hy Lạp - La Mã ) - trong đó có âm nhạc. Phải nói qua về “Classic”: Nghĩa đúng nhất của từ này là “Kinh điển”, nhưng chúng ta thường gọi là cổ điển. Tuy vậy, khi nói về nhạc Classic thì cũng đồng nghĩa với việc nói đến tất cả những gì được coi là thành tựu kinh điển của Âm nhạc phương Tây, trong đó chia ra làm nhiều thời kỳ, nhiều phong cách: Phục Hưng, Baroc, Cổ điển, Lãng mạn, Ấn tượng, Biểu hiện, ... Âm nhạc Phương Tây thường được phân theo trường phái, gắn liền với những tên tuổi của các nhạc sỹ.
Trong thời bấy giờ người ta xây dựng được nhiều trường phái nhạc kịch (opera). Đầu tiên là ở Ý, sau đó là Pháp. Tiếp theo nhạc kịch là các trường phái Clavecin (Đàn clavơxanh), violin, organ (là loại đàn dùng trong nhà thờ, không phải organ điện tử như bây giờ) …
Thế kỷ 17 là thời kỳ âm nhạc Baroc với những cái tên nhạc sỹ tiêu biểu là John Sebastian Bach (ông vua của loại nhạc phức điệu, chuyên viết cho đàn organ và clavecin), G.F.Handel (viết thanh xướng kịch Samson & Delilah), C.W.Gluck (nhạc kịch Oócphay - Oócphay (anh chàng xuống âm phủ cứu vợ nhưng không thành vì giữa đường đi dám trái lời dặn, quay lại nhìn mặt vợ) ... Ngoài ra trong thời này còn có Vivaldi viết bản concerto "Bốn mùa" nổi tiếng.
Thế kỷ 18 là thời kỳ Cổ điển: Sở dĩ gọi là cổ điển vì trong thời kỳ này người ta đã xác lập được nhiều mẫu mực kinh điển nhất của nhạc Classic. Bấy giờ có ba người tiêu biểu:
J.HAYDN: ông viết rất nhiều bản giao hưởng (lên tới 104 bài) và là "cha đẻ của thể loại Giao hưởng".
L.V.BEETHOVEN: Beethoven là người đã đưa giao hưởng và sonate lên đến đỉnh cao. Nhạc Beethoven là tiêu biểu cho chủ nghĩa anh hùng. Sở dĩ người ta nói thế là vì Beethoven sinh vào thời của cuộc cách mạng tư sản Pháp 1789, ông ta đã phản ánh tất cả những hình ảnh về chiến tranh một cách hoành tráng, căng thẳng dữ dội trong nhiều tác phẩm của mình. Chính vì thế nên những bản giao hưởng của ông nhiều đoạn rất mạnh mẽ, sục sôi và dữ dội. (Mà nhiều người nếu không hiểu sẽ không thể thích nhạc giao hưởng bởi sự quá phức tạp của nó. Tuy nhiên chính vì thế mà nhạc giao hưởng lại rất có giá trị trong những đoạn phim chiến đấu, chiến tranh, hay thậm chí trong những phim ma,… (đơn cử là trong loạt phim Harry Potter).
W.A.MOZART: Thần đồng âm nhạc. Năm lên 4 biết soạn nhạc, 14 tuổi được phong "Viện sỹ viện hàn lâm" (danh hiệu mà thường chỉ những lão thành sau bao nhiêu năm miệt mài đóng góp mới vinh dự nhận được!). Tuy nhiên ông chỉ sống được 30 tuổi và đã chết rất khổ. Mozart - người được mô tả là thiên tài của tất cả các thể loại bởi ông có thể viết được tất cả các thể loại nhạc.
Thế kỷ 19: Thời kỳ Lãng Mạn. Trong thời kỳ này, sau thoái trào của cách mạng Tư sản Pháp, sau khi những hứa hẹn tốt đẹp của cuộc cách mạng không thực hiện được, con người vẫn bị kìm kẹp trong quyền lực thì sinh ra thực tế bế tắc. Âm nhạc thời này phản ánh nỗi bế tắc, nỗi cô đơn của con người, những ước vọng, nội tâm cá nhân, những mơ mộng,... nên được gọi là Lãng Mạn.
Thời này bùng nổ số lượng những nhạc sỹ thiên tài: Schubert, Chopin, Tchaikovsky, Grieg, Liszt, Schumann, Glinka, Mendelsohn, Wagner... Trong thế kỷ 19, âm nhạc đã có một bước tiến rất dài, phát triển rực rỡ với rất nhiều thể loại: Concerto, Sonate, Norturne (nhạc đệm), Serenade (nhạc chiều), Opera, Ballet, nhạc thính phòng (Chamber), ca khúc (ví dụ như bài Ave Maria nổi tiếng của Schubert)...
Đây là một thời kỳ rất quan trọng của nhạc Classic bởi tác phẩm vô cùng đa dạng, phong phú... Có nhiều tác phẩm rất tuyệt vời đặc biệt nhờ sự phát triển vượt bậc của hòa thanh (hòa thanh là các kiểu kết hợp các nốt với nhau tạo ra sự hài hòa tương đối, mà điều thú vị nhất là mỗi kiểu sẽ tạo ra những sắc thái tình cảm khác nhau: vui, buồn, giận, hờn... rất thú vị !). Nói về hòa thanh trong thế kỷ 19 thì thực sự phải bái phục các nhạc sỹ vì họ quá giỏi, quá....bác học!
Thế kỷ 20: Nhiều người tưởng nhầm rằng nhạc Classic là loại nhạc của quá khứ, nhưng thực tế nó đã, đang và vẫn sẽ tiếp tục phát triển ngày càng mạnh. Người ta vẫn sáng tác rất nhiều, không ngừng, vẫn biểu diễn, vẫn có rất nhiều khán giả, vẫn giảng dạy, và đặc biệt nhất là luôn luôn có hệ thống lý luận, phương pháp rất chặt chẽ và khoa học.
Từ năm 1900 và trong suốt thể kỷ 20 cuộc sống con người có rất nhiều bước ngoặt, hai đại chiến thế giới, cách mạng khoa học kỹ thuật...Thế kỷ 20 là một thế kỷ có tốc độ phát triển vũ bão, chóng mặt nhất từ xưa tới nay, thế nên nhờ đó nghệ thuật cũng được “ăn theo”, cũng thay đổi chóng mặt. Hội họa có trường phái trừu tượng, siêu thực, lập thể,... nhiều khi khiến cho người ta rất khó hiểu. Bên âm nhạc cũng tương tự. Âm nhạc Classic của thế kỷ này cũng vô cùng thú vị.
1890-1917: Đây là thời kì chuyển tiếp từ hậu kì chủ nghĩa lãng mạn đến hiện đại. Các tác giả tên tuổi: Raven, Ma-le, Pushini...
Đầu thế kỉ XX, chủ nghĩa Mođéc ra đời. Đặc điểm của chủ nghĩa này là xa rời hiện thực, biểu hiện sự khủng hoảng và bế tắc của các nghệ sĩ trong Xã hội tư bản.
Hai trào lưu nghệ thuật mới nảy sinh quan trọng nhất trong giai đoạn này là:
1. - Chủ nghĩa tự nhiên:
Âm nhạc của chủ nghĩa này biểu hiện những dáng vẻ đầy mâu thuẫn: Một mặt, họ quan tâm đến đời sống của những con người bình thường. Mặt khác, họ chú ý đến những chi tiết mô tả bằng âm thanh và hướng dần đến hát nói, chia vụn cấu trúc âm nhạc. Điều đó được thể hiện qua các tác phẩm của Pushini,Valê...
2. - Chủ nghĩa ấn tượng:
Âm nhạc của chủ nghĩa này thể hiện những ấn tượng của họ đối với thế giới bên ngoài. Chính điều đó đã khiến cho họ xa vào mộng mị, điều kì dị hoặc cảnh trí thiên nhiên mà không quan tâm đến những xung đột sâu sắc trong đời sống con người và tâm hồn con người thời đại để lẩn tránh những đòi hỏi của cuộc sống và nhân dân.
* Sự khủng hoảng lớn nhất trong nghệ thuật Môđéc là phá hủy tư duy giai điệu vốn có truyền thống trong âm nhạc cổ điển và lãng mạn, làm nảy sinh những ấn tượng mới như: đa điệu tính, vô điệu tính, thậm chí có những chồng âm gồm cả 1 gam cromatic...Tất cả những hiện tượng này đều có ảnh hưởng tiêu cực đến một số nghệ sĩ tài năng trong âm nhạc thời kì hiện đại.
1917-1945:
1. - Chủ nghĩa biểu hiện:
Đã nở rộ ở nhiều nước Tây Âu, phản ánh sự kinh hoàng và dao động trước những hiện tượng mới:chiến tranh đế quốc, khủng hoảng kinh tế... Biểu hiện một cách phóng đại cực đoan tâm trạng, cảm xúc của con người thông qua chủ quan của người nghệ sĩ, dẫn đến những cảm xúc có phần bệnh hoạn.
2. - Chủ nghĩa cấu trúc:
Là chủ nghĩa đối lập với chủ nghĩa biểu hiện, biến ngôn ngữ âm nhạc thành vật liệu để mô tả những đối tượng có tính chất cơ giới, lắp ghép những khối âm thanh xa lạ trong kết cấu tác phẩm.
Một số tác giả tiêu biểu: Mayô, Ôneghe...
Như vậy, Phương Tây nổi tiếng về cái nôi văn hoá - văn minh Hy - La cổ đại (khoảng 2800 năm đến 3000 năm trước Công nguyên. Nền âm nhạc Phương Tây từ lâu đã được định hình và đạt được nhiều thành tựu to lớn về hệ thống lý luận âm nhạc, về phong cách sáng tác, phong cách biểu diễn, các thể chế tổ chức và diễn tấu (chẳng hạn như những qui định ngặt nghèo trong biên chế dàn nhạc, sự phân loại và sử dụng các loại giọng…). Các lý thuyết cơ bản về âm nhạc được đề xướng từ phương Tây luôn dựa trên cơ sở khoa học và được phổ biến rộng khắp trên toàn thế giới. Đồng thời, nó chi phối, ảnh hưởng cực kỳ mạnh mẽ đến nghệ thuật âm nhạc của nhiều nước, kể cả các nước phương Đông. Chúng ta phải thừa nhận một thực tế là cho đến nay âm nhạc Phương Tây vẫn được phát triển một cách rộng rãi trên toàn thế giới, vẫn là một trào lưu chiếm ưu thế hầu như vô hạn định, được phổ cập một cách mạnh mẽ. Các nhạc cụ được sử dụng trong âm nhạc Phương Tây rất phong phú, đa dạng. Các nhạc cụ thời nguyên thuỷ cũng bắt đầu bằng những cây đàn gõ bằng đá, bằng ống sậy, bằng ống xương, bằng ống sừng… Sau đó, người ta biết dùng tới sợi dây căng - chùng và dài - ngắn để tạo các âm thanh cao thấp khác nhau. Thời cổ đại Hy Lạp có các nhạc cụ tiêu biểu như: đàn Lia (nguồn gốc từ phương Bắc – người Phratki), đàn Kipha và kèn Aviot (nguồn gốc từ Tây Á), sáo nhiều lỗ Xirinh… Đến thời trung cổ, âm nhạc của nhà thờ Thiên Chúa giáo thống trị, âm nhạc dân gian phát triển không mạnh. Thời kỳ này, dàn nhạc nhiều tổ hợp nhạc cụ được hình thành và chỉ trong nhà thờ mới có tổ chức dàn nhạc lớn. Âm nhạc thời phục hưng ở phương Tây bắt đầu đi những bước non trẻ, song từng bước có vị trí vững vàng. Các loại nhạc cụ tiêu biểu ở phương Tây gồm: đàn Luyt, đàn Oocgan, đàn Clavecine, đàn Mandoline, đàn Guitare, đàn Vion, đàn Violon, đàn Viola, đàn Violoncello, đàn Contrebass, sáo Flute, kèn Oboi, kèn Clarinetto, kèn Fagotto, trống Timpani, trống Tamburino, trống Tamburo, … luôn được ưa chuộng và được sử dụng thường xuyên trong biên chế dàn nhạc.
Tóm lại, bộ môn Lịch sử Âm nhạc phương Tây cũng là một công cụ tác động đến những khía cạnh thầm kín, sâu xa trong tâm hồn con người, xây dựng trong mỗi con người sự nhạy cảm về cái đẹp và lòng mong muốn đưa cái đẹp vào cuộc sống. Trong quá trình dạy học Lịch sử Âm nhạc phương Tây, giáo sư Brian ngoài việc cung cấp cho người học những tri thức cơ bản mang tính khoa học, ông đã lồng ghép giáo dục thẩm mỹ và khơi dậy cảm xúc âm nhạc, thái độ nhân văn của người nghe đối với hiện thực và nâng cao năng lực cảm thụ, đánh giá thẩm mỹ trong cuộc sống, lao động học tập. Đây cũng là cơ hội để giảng viên và sinh viên khoa Âm nhạc ôn lại lịch sử phát triển cũng như cập nhật được tình hình phát triển âm nhạc hiện nay ở các nước phương Tây.