Dưới góc nhìn văn hóa, lịch sử, bài viết phân tích mối quan hệ giữa chữ Quốc ngữ và sự phát triển của văn xuôi Việt Nam 15 năm đầu thế kỷ XXI. Văn xuôi chữ Quốc ngữ giai đoạn này đã có sự phát triển vượt bậc, không chỉ trong nước và cả ở nước ngoài. Một trong những tác động tích cực tới sự phát triển đó xuất phát từ vai trò của chữ Quốc ngữ hiện đại.
1. Chữ Quốc ngữ và sự phát triển văn hóa Việt Nam trong thế kỷ XX
Mặc dù được các giáo sĩ phương Tây sáng chế ra từ cuối thế kỷ XVII, chữ Quốc ngữ chỉ thực sự trở thành văn tự chính thức của các dân tộc ở Việt Nam từ đầu thế kỷ XX. Ban đầu, chữ quốc ngữ chỉ được xem là công cụ truyền đạo đắc lực và hiệu quả của các nhà truyền giáo. Từ khi hình thành cho đến một thời gian dài sau đó, chữ quốc ngữ chưa có chỗ đứng trong xã hội Việt Nam, ngoại trừ được sử dụng trong cộng đồng Công giáo. Cho tới khi thực dân Pháp xâm lược nước ta, với các công văn quy định buộc phải sử dụng chữ quốc ngữ, từ đó loại hình chữ viết này mới được lên ngôi. Trước tiên, tại Nam Kỳ, Phó Đề đốc De Lagrandière đã bãi bỏ Hán học và mở trường dạy chữ Pháp và chữ Quốc ngữ. Năm 1882, nhà cầm quyền còn ra những nghị định bắt buộc dân phải dùng chữ quốc ngữ trong mọi công văn giấy tờ. Sang đầu thế kỷ XX, chữ quốc ngữ không chỉ được thừa nhận mà còn được lan rộng qua các phong trào cổ động cho việc lựa chọn chữ quốc ngữ thay cho chữ Hán và chữ Nôm diễn ra trong khắp cả nước do các sĩ phu, trí thức hưởng ứng. Các tên tuổi có đóng góp cho sự phát triển của chữ quốc ngữ như: Huỳnh Tịnh Của, Trương Vĩnh Ký, Nguyễn Văn Vĩnh, Phan Châu Trinh… Nguyễn Văn Vĩnh khuyến khích mọi người đề cao việc học chữ quốc ngữ đã nói: “Chữ Quốc ngữ là hồn của nước”, “nước ta sau này hay dở đều ở chữ Quốc ngữ”.
Sau đó, năm 1917, vua Khải Định ra lệnh bãi bỏ tất cả các trường học chữ Hán. Năm 1932, vua Bảo Đại ra quyết định dùng chữ quốc ngữ thay cho chữ Hán. Năm 1938, Hội truyền bá chữ quốc ngữ ra đời, nhờ hội này, sự phổ biến chữ quốc ngữ nhanh chóng đến với quần chúng.
Đặc biệt, khi nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa ra đời, ngày 8.9.1945, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã ra sắc lệnh chống mù chữ, bằng việc học chữ Quốc ngữ. Từ đây, chữ Hán và chữ Nôm mất đi địa vị của mình, chữ Quốc ngữ chiếm địa vị độc tôn trong xã hội Việt Nam.
Như vậy có thể nói, sự phát triển của chữ quốc ngữ một phần là do nó phù hợp với lịch sử, nhưng phần khác lớn hơn là do tính ưu việt so với các hình thức chữ có trước đó tại Việt Nam. Ưu thế này đã khiến chữ Quốc ng