1. Văn hoá sông nước ở Việt Nam trước đây
Thuở đất trời hình thành, sinh ra ngày đêm mưa nắng, đất giữ nước cho vạn vật sinh tồn. Nước trả ơn đất bằng các dòng sông. Từ khi loài người biết dùng những loài động vật để làm thức ăn, thì sông nước là nơi cung cấp nguồn thức ăn nhiều nhất và sớm nhất. Chim thú rất nhiều nhưng săn bắt không dễ dàng. Con người chẳng tốn mấy công sức có thể bắt được tôm cá, cua rạm làm nguồn đạm rất bổ dưỡng. Cá, tôm, ruốc và nhiều loài thủy sản khác không chỉ là nguồn thức ăn chủ đạo của con người, mà còn được chế biến thành mắm, trở thành vật phẩm để ban thưởng cho quan lại có công trong các thời đại phong kiến xa xưa. Chất đạm từ thủy sản, đến thời bây giờ vẫn còn giá trị trong đời sống thường nhật, kể cả miền núi có nhiều thịt chim, thú rừng nhưng chất đạm từ mắm và muối không thể thiếu.
Có thể nói, nước là “người mẹ” của con người từ thuở sơ khai. Cây lúa nước xuất hiện trên đồng ruộng là một điều kỳ diệu với người Việt. Nó cung cấp thức ăn là chất bột có nhiều dinh dưỡng lại bảo quản được lâu. Thiếu nước sẽ không có lúa nước và sẽ chẳng có một nền văn minh lúa nước.
Không ngẫu nhiên mà con người lại dựa vào các triền sông làm nhà ở. Tục ngữ có câu: “Nhất cận thị, nhị cận giang” (thứ nhất là gần chợ, thứ nhì là gần sông) đã chứng minh điều đó. Con người cư trú ven sông, trồng lúa nước, quăng chài, kéo lưới sinh sống. Những ngã ba sông, nơi ven biển nhanh chóng tạo thành làng mạc đông vui, thành trung tâm chính trị, kinh tế, văn hóa. Ở đây là nơi hội tụ những gì tinh túy, những thông tin mới mẻ từ kinh thành về các vùng quê, con gái ở ven sông thường gặp gỡ được bạn trai tứ xứ, kết mối lương duyên.
Thời kỳ chưa có đê, người Việt cổ sống bằng thuyền. Trên các sông ngòi đầy thuyền thay thế ngôi nhà. Khi mà trên đường bộ chưa hình thành, thì việc đi lại chủ yếu là trên sông nước. Trên đồ đồng Đông Sơn người ta đã thấy xuất hiện thuyền, mảng, bè… do con người tự tạo từ thời Hùng Vương. Những con thuyền đầu tiên được trang trí khá đẹp. Trên các thạp, trống, rìu đều có hình thuyền với đủ kiểu phong phú. Đến quan tài dành cho người chết cũng có hình thuyền với mái chèo chôn theo, đã minh chứng một văn minh thời Việt cổ. Đến thế kỷ 18 người phương Tây vẫn còn nhận xét: “Xứ này (tức Việt Nam) không có đường cái lớn, lại chằng chịt ruộng đồng. Muốn đến Huế cũng như bất kỳ nơi nào đều phải đi đường thủy”.
Ngày xưa người Việt đã biết dùng 3 loại thuyền. Nhỏ nhất là thuyền độc mộc, thuyền thúng. Loại thuyền lớn hơn đóng bằng ván, có chèo lái ở đằng đuôi thuyền dùng để vận tải, trang trí tương đối đẹp. Loại lớn nhất là thuyền chiến, trang bị vũ khí như: Rìu, giáo, con lao, dao găm, mộc chắn, cung nỏ… phục vụ chiến đấu.
Con người nhờ sông nước mà có thức ăn, nhà ở, phương tiện đi lại, sinh tồn. Sông nước che chở con người. Chẳng có gì khó hiểu tại sao con người thờ Mẫu là nước.
Hàng nghìn năm người Việt cổ sống gắn bó với sông nước đã hình thành hệ thống văn hóa sông nước. Chuyện sấm sét dông mưa, hô vân hoán vũ có ảnh hưởng tới cuộc sống của người dân. Người dân thuở xưa cho rằng trên đời này có các thần linh trông coi về nước, về mưa để dân chúng trồng cấy và sinh sống. Các hình thức làm lễ nguyện cầu các thần phù hộ độ trì cho con người thoát khỏi tai ương ra đời, lâu dần thành tập tục. Nhiều tập tục có ý nghĩa xã hội như hội té nước, hội đua thuyền còn lưu truyền đến tận ngày nay. Vua Lê Đại Hành chính thức lấy hội đua thuyền hằng năm làm thành quốc lễ. Nhà vua ý thức rằng, nước Việt như một hòn núi đặt trên thuyền bồng bềnh sông nước, đã phát huy truyền thống sông nước trong dân chúng.
Hàng loạt các loại hình văn hóa, nghệ thuật ra đời bắt nguồn từ sông nước: Truyện dân gian, truyền miệng, ca dao, tục ngữ có liên quan đến sông nước như truyện thần thoại Sơn Tinh-Thủy Tinh đánh nhau do ghen tuông tạo ra trận lũ lụt hằng năm; một mối tình ngang trái giữa anh lái đò Trương Chi và Mỵ Nương; Chử Đồng Tử và Tiên Dung trong câu chuyện tình huyền thoại bên dòng sông… Rồi những điệu hát ngồi tựa mạn thuyền, chèo đò, đò đưa, các điệu hò kéo lưới, quăng chài xuất hiện đặc sắc ở vùng sông biển.
Người Việt thành thạo sông nước, thạo dùng thuyền, giỏi chài lưới, thông luồng lạch, nắm rõ quy luật sông nước. Khi đất nước có chiến tranh, sông nước góp phần lập chiến công hiển hách cùng với con người. Lúc ấy sông nước biết hờn căm, biết hóa thành tiếng thét giết giặc.
Trong lịch sử Việt Nam có nhiều danh nhân nổi tiếng nghề sông nước. Yết Kiêu thời Trần là ví dụ điển hình. Ông nhà nghèo, hằng ngày lặn lội bờ sông, mò cua, bắt cá kiếm sống. Ông có tài bơi, lặn như loài thủy tộc, được Hưng Đạo vương Trần Quốc Tuấn trọng dụng, tin cậy. Trong kháng chiến chống quân Nguyên-Mông thế kỷ 13, ông từng lặn xuống đáy sông đục thuyền giặc, lập công to. Đó là một danh tướng biết đặt Tổ quốc lên trên hết, lòng trung trinh sáng vằng vặc giữa trời sao. Khi Yết Kiêu mất, nhân dân nơi quê ông đã lập đền thờ bên bờ sông làng Hạ Bì tức làng Quát, huyện Gia Lộc, tỉnh Hải Dương. Hội đền Quát rất đông vui, thường có tục bơi chải, đua thuyền nam, thuyền nữ để đua tài, nhưng là tỏ lòng nhớ Yết Kiêu-vị tổ nghề bơi lặn, mong ông ban cho mọi phước lành.
2. Tục mộ táng bằng thuyền ở Việt Nam
Ở trên, ta có thể thấy sông nước có vai trò quan trọng đối với người Việt Nam bởi nó gắn liền với nền nông nghiệp lúa nước và là huyết mạch giao thông của cư dân nơi đây. Vì vậy, hình ảnh con thuyền từ lâu đã đi vào tâm thức họ. Thuyển không chỉ là phương tiện đi lại, mà còn về mặt tâm linh, nó còn là phương tiện để tiễn đưa linh hồn người chết sang thế giới khác. Ta có thể thấy được điều này qua các điệu múa chèo thuyền đưa linh hồn và hình thức mộ thuyền.
Cư dân Việt tin rằng ngoài thế giới hiện thực còn tồn tại một thế giới khác mà chỉ khi con người chết đi, linh hồn sẽ được đưa đến đó bằng một con thuyền. Trên thuyền, người ta thường chất những thứ như vũ khí, vật dụng sinh hoạt, lương thực,… để người chết có thể tiếp tục cuộc sống ở thế giới bên kia. Và thuyền trôi đi theo dòng nước cùng với lời hát đưa linh não nùng:
Hò hò đưa linh
Đưa linh phản hồi
Ai đưa chim nhạn về chốn bể Bắc
Không cho chim nhạn về chốn non Đoài…
Giống như sự di cư trong đời sống thực của nhiều tộc người Đông Nam Á, linh hồn người chết sẽ được đưa qua những nơi mà khi sống họ đã từng đến. Điều này phản ánh rõ tâm lý của cư dân sống trong môi trường sông nước, họ cho rằng: phải đi bằng thuyền, mặc trang phục truyền thống thì tổ tiên mới nhận ra và như vậy, cuộc sống của người chết ở thế giới bên kia mới được tốt đẹp. Hay như một số dân tộc ở miền núi phía Bắc Việt Nam cư trú ven các con sông, họ tự quy ước: bên phải là nơi sinh sống của người dương gian, bên trái là phần đất của người đã chết. Do đó, quan tài phải được thuyền chở qua sông.
Tại Việt Nam, ngành khảo cổ học đã tìm được các hiện vật cho thấy: mộ táng hình thuyền hay mộ thuyền bắt đầu xuất hiện ở thời kỳ văn hoá Đông Sơn. Tuy nhiên, mộ thuyền không phân bố trong toàn khu vực mà chỉ phân bố hẹp, tương ứng một số tỉnh ngày nay là Hải Phòng, Hưng Yên, Thái Bình, Hà Tây cũ… Nhìn vào bản đồ phân bố, mộ thuyền chủ yếu có ở những vùng đất thấp, vùng đầm lầy trũng ven sông Đáy và sông Hồng thuộc châu thổ Bắc Bộ. Cho nên có ý kiến cho rằng tục mai táng trong quan tài hình thuyền của người Việt cổ chỉ có ở vùng lầy ngập nước.
Song ý kiến này không chính xác vì các nhà khảo cổ đã tìm thấy mộ thuyền của dân tộc Mường sống ở vùng trung du, miền núi và tục mai táng này vẫn tồn tại trong khi cư dân ở đồng bằng đã chuyển sang hình thức mộ táng bằng gạch do ảnh hưởng của văn hoá phương Bắc.
Tục chôn cất bằng quan tài hình thuyền có ở nhiều nước Đông Nam Á, song mỗi nơi lại có những điểm khác biệt. Việt Nam là nơi phát hiện mộ thuyền sớm nhất và loại mộ này vẫn được duy trì cho đến cuối thế kỷ XIX (dân tộc Mường). Ở Việt Nam, quan tài hình thuyền thuộc vào loại sớm nhất và được chôn trên bãi cát lầy (nơi mà khi nước lên, thuyền có thể đi qua). Những hình thuyền trên trống đồng, thạp đồng và những di vật khảo cổ học thuộc văn hoá Đông Sơn đã chứng minh cho điều này, nó cũng khẳng định người Lạc Việt quen sống với cuộc sống sông nước.
Mộ thuyền người Việt mai táng rất đơn giản, chỉ có một số được đặt trong huyệt (như mộ Xuân La), còn đa số các mộ khai quật đều không đào huyệt, chỉ được nhấn xuống đầm lầy, rồi ghìm cọc cho khỏi bị trôi nổi.
Năm 2016, trong quá trình san ủi đất để thi công công trình hệ thống kênh mương đập thuỷ điện Ngàn Trươi tại xã Đức Đồng, huyện Đức Thọ, các công nhân đã phát hiện mộ thuyền cổ ở độ sâu trên 3m.
Nhận được thông tin trên, Bảo tàng Hà Tĩnh đã cử cán bộ chuyên môn về tại hiện trường để tìm hiểu sự việc. Khảo sát bước đầu cho thấy, mộ cổ được phát hiện tại cánh đồng Bàu Dài, thuộc thôn Thanh Phúc (xã Đức Đồng), cách núi Dầu (di chỉ khảo cổ học thời đại đá mới) khoảng 1km theo hướng Đông - Nam.
Mộ cổ nói trên là một thân cây to bằng gỗ dâu khoét rỗng, có kích thước chiều dài 1.9m, chiều rộng 40-50cm. Phía trong mộ là các hợp chất màu đen nhuyễn, đồ tuỳ táng gồm một chiếc bát và đồng tiền cổ.
Qua nghiên cứu bước đầu cho thấy, mộ cổ có niên đại thời Trần, là loại hình mộ táng theo kiểu thức mộ thuyền mang phong cách truyền thống Đông Sơn của người Việt cổ.
Được biết, loại hình mộ thuyền cổ này đã được các nhà khảo cổ học phát hiện trước đó ở địa bàn đồng bằng tập trung dày đặc ở Thiên Lộc (Can Lộc) và rải rác ở Cẩm Huy, Cẩm Hưng (Cẩm Xuyên), Thịnh Lộc (Lộc Hà)… Tất cả ngôi mộ này đều có chung niên đại thời Trần và thời Lê (thế kỷ XIII - XIV).
Đây là lần đầu tiên mộ cổ được phát hiện ở địa bàn miền núi Hà Tĩnh, điều đó cho thấy địa bàn phân bố loại hình mộ thuyền cổ bao gồm cả đồng bằng và vùng núi, là địa bàn cư trú của người Việt cổ trên vùng đất Hà Tĩnh trong quá trình phát triển lịch sử của dân tộc.
Trước đó, năm 2004, người dân thôn Quyết Tiến, xã Thiên Lộc, Can Lộc, Hà Tĩnh vô tình làm phát lộ các thân gỗ to nghi là mộ thuyền.
Nhận được tin đó, Bảo tàng Hà Tĩnh phối hợp với Viện Khảo cổ và Trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn cử các nhà khảo cổ học đến khai quật khu di chỉ này từ 14 đến 19-4.
Sau khi khảo sát, các nhà khảo cổ bắt tay mở mộ vào ngày 15-4. Ở độ sâu 1-1,2m hố thứ nhất, họ thấy hai quan tài nằm song song, cái dài cái ngắn (2m và 2,2m) xếp bằng một đầu, rộng gần nửa mét, cao hơn nửa mét.
Mộ táng bằng thuyền phản ánh một hình thức mai táng của cư dân sống ở vùng sông nước và đầm lầy với tín ngưỡng về chiếc thuyền đưa linh hồn người chết sang thế giới khác. Hình ảnh con thuyền in đậm trong tâm thức của cư dân Việt. Ngoài việc dùng làm phương tiện để chuyên chở, khai thác nguồn hải sản, họ còn biến con thuyền thành ngôi nhà để sinh sống, hình thành nên hàng loạt làng chài ở ven sông. Từ chiếc “thuyền nhà”, mô hình này đã được đưa lên cạn, tạo thành mẫu nhà hình thuyền phổ biến ở người Việt. Cư dân sống trong những ngôi nhà to, dài có mái cong hình thuyền; một số mái đình, chùa của Việt Nam cũng có cấu trúc như vậy. Tất cả những điều nói trên đã góp phần tạo ra không gian văn hoá đặc thù hay những nét tiêu biểu của văn hoá sông nước tại Việt Nam trước đây.
Cầu Yên Xuân nối đôi bờ sông Lam. Ảnh: Quốc Đàn